jeudi 21 avril 2016

BÉ GẤU DŨNG CẢM




BÉ GẤU DŨNG CẢM

Thân gi quý bạn Phim tự nhiên rất hay ai xem 
cũng hồi hộp và xúc cảm.
Kính
 



samedi 16 avril 2016

DANH NHÂN, TRIẾT GIA, KHOA HỌC GIA VÀ THIÊN CHÚA





........

Khổng Tử: "Duy Thiên vi đại" (Chỉ có Trời là lớn nhất)
"Nhân tri nhân bất khả dĩ bất tri Thiên."
(Người còn biêt nhau, không thể mà không biết Trời được.)
"Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú."
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no, mặc ấm, sống vô đạo, thì có hơn gì con vật.)


Chu Tử: "Thượng đế gỉa, Thiên chi Chúa tể giả." (Vua trên hêt là Chúa trên trời.)

Đỗ Trọng Thư: "Thiên giả vạn vật chi tổ." (Trời là gốc của vạn vật.)

Triêt gia Pascal: "Nếu bạn muốn tin vào Thượng Đế, phải qùy xuống"

Bác học Pasteur: "Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế."

Bác học Becquerel: "Nhờ nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin."

Bác học Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời, đã thôt lên: "Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính."

Bác học Pasteur: "Mĩa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hêt hoặc chết là trở về với hư vô."

Bác học Bourgeois: "Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng to hơn."

Văn hào Platon: "Những ai có một chut trí khôn, đều phải kêu cầu Thượng Đế trươc khi băt đầu công việc của họ, dù việc lớn, hay việc nhỏ."

Bác học Duclaux: "Nếu sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuât hiện kia, nó kỳ dị như hòn đá, tự bò lên sườn núi."

Charles Dickens: “Kinh Thánh Tân Ươc chính là cuốn sách tôt nhât đã từng và sẽ được biêt đến trên thế giới.”

Isaac Newton: “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chăc chắn về tính có thực hơn bât cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”

Victor Hugo: “Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và Shakespears.
Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”

Napoléon: “Một dân tộc không tôn giáo, chỉ phải cai trị bằng súng đạn.”

Schiller: “Trong một nước mà tôn giáo lung lay, thì không chỉ tôn giaó lung lay, nhưng sẽ lung lay tât cả rường cột quốc gia: uy quyền quốc gia, sự tôn trọng luật lệ, kỷ cương, đạo hạnh, luân lý.”

Bác học Albert Einstein:  “Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”;  “Thượng Đế không chơi trò may rủi.”; "Tôi chưa hề gặp điều gì trong khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo."

Bác học Ampere.   Một hôm, có người nói với nhà bác học câu này: “Ngài thật là vĩ đại vì đã phát minh nhiều điều hữu ich cho nhân loại”
Ampere đã trả lời:  “Con người chỉ vĩ đại khi quỳ xuống cầu nguyện với Thiên Chúa.”

Giáo sư Edwin Carlson, nhà Sinh vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ: "Sự sống phát xuất từ sự tình cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả của một vụ nổ xảy ra ở một nhà máy in."

Giáo sư James Simpson, người phat minh ra phương phap gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phat minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”

Triêt gia Kant: "Không ai chứng minh một cach xac đáng là không có Thiên Chúa."

Bac học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng thap Eiffel: " Edison hêt sưc khâm phục và ca ngợi tât cả kỷ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa."

Pascal: "Người không tin nói, nếu tôi có đưc tin, tôi sẽ bỏ tà dâm. Nhưng tôi bảo anh, nếu anh bỏ tà dâm, anh sẽ có đưc tin."

Văn hào Bossuet: "Những chân lý đời đời không thay đổi của luân lý, buộc ta phải tin có một Đấng Tạo Hóa."

Triêt gia Brunetter: "Đã từ lâu, tôi cố gắng tìm kiếm một nền luân lý vô tôn giáo. Trươc hêt, tôi thấy rằng điều này khó thực hiện, sau tôi thấy rằng qúa liều lĩnh, cuối cùng tôi thấy rằng không thể được. Tôi một người thuộc nhóm Tự Do Tư Tưởng. Tôi băt đầu nghiên cứu Thiên Chúa giáo. Tôi đã học hỏi rât lâu, suy nghĩ rât cẩn thận, cuối cùng tôi phải nói rằng, chân lý ở phía chân trời đó."

Giáo sĩ Moreux, giám đôc đài thiên văn Bourges : "Tôi liên lạc với cac vị giám đôc thuộc hêt mọi đài thiên văn trên thế giới, tât cả đều tin có Thiên Chúa."

Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”

Nhà Thần Học Millard J. Erickson: "Nếu có một Đức Chúa Trời, thì nói một cách khách quan, bạn và tôi không thể làm gì để giết chết Ngài. Trái lại, nếu không có Đức Chúa Trời, thì dù cố gắng thế nào đi nữa, không một ai trong chúng ta có thể làm cho Ngài thực hữu được."

Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon , đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại LộĐưc ( Lourdes , France ). Marie Ferrand, từ một cô gái săp chêt, trở nên lành mạnh tưc khăc, ông nói: “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bât ngờ, một phep lạ mới xẩy ra.” Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xac nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo, trước khi về Nhà Cha trên trời.

Văn hào Victor Hugo: "Thượng Đế là Đấng vô hình xac thực, chối Ngài là mù quáng điên rồ."

Bác học Chevreul (1786-1889): “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”

Bác học Diderot: “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”

Bác học John Eccles, người đoạt giài Nobel: “Tôi chấp nhận tât cả những lý thuyêt khoa học, nhưng những lý thuyết này không giải thich một chút nào về sự kiện, làm thế nào, tôi, một sinh vật biêt suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự sáng tạo linh hồn là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ nhận được, nó hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học”
Ông nói thêm: “Niềm tin của những nguòi chủ truong duy vật chât đang hao mòn; họ không dẫn chúng ta đến đâu cả. Thuyêt ‘khoa học duy vật’ đưa con nguòi đến tuyệt vọng, trống rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề tâm linh, tình yêu thuong, can đảm, bác ái”.

Taine: “Vô thần xuât hiện thì tính ich kỷ, bon chen, độc ác và dâm đảng tiến lên”

Richepin: “Nếu thật sự Thiên Chúa chẳng là gì, thì việc gì cac ông vô thần công kich Ngài và giơ tay chỉ trich Ngài cho mỏi”

D’Alembert: “Cái tính hão huyền không muốn nghĩ tường như mọi nguòi, là lýdo tạo nên kẻ vô thần hơn là chứng lý sáng tỏ”

LaBruyère: “Tôi muốn thấy một nguòi trong sạch và tiêt độ tuyên bố rằng không có Thuọngđế, nhưng không thấy ai cả.”

Bacon: “Kiến thức nông cạn đưa nguòi ta xa tôn giáo, nguọc lại kiến thức sâu sa đưa nguòi ta lại gần tôn giáo.”

Bác sĩ riêng của Lenine, lúc 83 tuổi, ông xuât bản hai cuốn sách: “Sự bí mật và sự khôn ngoan của thân xác (1958); và “Mầu nhiệm của sự sống” (1960). Ông nói: “Môn sinh vật học và môn phân tich tâm lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần.”

Văn sĩ Francois Coppée: “Trong những tháng nằm trên giường bệnh, tôi đã sống với sách Phúc Âm. Dần dần những dòng chữ của Sách Thánh trở nên sống động trong tôi. Trong mỗi tiếng, tôi thấy sáng lên một chân lý như một vì sao. Tôi cảm thấy chân lý ấy rung động trong tôi như một qủa tim. Làm sao từ nay tôi không tin có phep lạ, sau khi đã được phép lạ do sách Phúc Âm làm nơi tôi? Linh hồn tôi trước kia mù tịt trước ánh sáng đức tin, bây giờ đã thấy ánh sáng này với tât cả vẻ huy hoàng của nó. Linh hồn tôi trước kia điếc đặc trước Lời Chúa, nay đã nge rõ ràng và vui sướng cảm phục. Linh hồn tôi trước kia tê liệt vì không tìm hiểu tôn giáo, lúc này đã nóng nảy hăng hái bay lên trời. Qủy dơ bẩn mà linh hồn tôi bị ám ảnh, nay đã bị đuổi đi.”

Nhà thông thái P. Tichmann: đã viêt nhiếu sách chống Giáo Hội Công Giáo và Chúa Giêsu. Ông cố sức tìm lý lẽ trong Cựu Ước đế chứng minh Chúa Giêsu chưa đến, thì ông thay đổi, vì ông thấy lời tiên tri trong Cựu Ưóc hoàn toàn thực hiện trong Chúa Giêsu. Ông nói: “Cái khăn bịt mắt của chúng ta thật là dầy, đã làm cho chúng ta không nhìn thấy chân lý rõ hơn mặt trời.”

Thánh Augustin: "Không ai phủ nhận Thượng Đế, nếu họ không có lợi gì khi phủ nhận Ngài."

Thánh Lêô Cả: "Cảnh vật thiên nhiên dạy mỗi người biêt tôn thờ Thiên Chúa."

Thánh vịnh 19:1 : "Tầng trời xưng tụng vinh quang Chúa, không trung giãi tỏ sự nghiệp Ngài."

Triêt gia Platon: "Có thể xây một thành trì trên chín từng mây, dễ hơn cai trị một dân không tôn giáo."

Chateaubriand: "Tiêu hủy việc thờ tự của Phúc Âm, thì mọi làng phải xây nhiều nhà ngục và phải có nhiều lý hình."

Wernher Von Braun (1917-1977) thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn cắm cờ Hoakỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976 khi diễn thuyết tại Philadelphia , Bang Pennsylvania , Ông nói:: "Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm. Khoa học và đạo không mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tôt đẹp lạ lùng đó. Đạo không phải là di sản mà người đời sau hưỡng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng như khoa học phải thăng tiến. Nguòi tín hữu phải tìm hiểu đạo và nhà khoa học phải khổ công nghiên cứu mới thành bac học.”

Bác học T. Termier: "Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biêt Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khac, nhà bac học dù chuyên về khoa nào, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyêt điểm, có cùng đich và rât phưc tạp. Do đó, hơn những người dôt nat, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bât di bât dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhât an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa. Và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa."

Giám mục Hulst sau 20 năm nghiên cứu cac vấn đề triêt học. Ngài có viêt năm 1885 rằng: Ngài đã đọc và suy nghĩ rât nhiều về cac sach báo cac nhà vô thần tài giỏi nhât, có tiếng nhât, những nhà thực nghiệm, những nhà phiếm thần đủ cỡ đã viêt. Tât cả những cái đó, không làm khuynh đảo lòng tin của Ngài, mà còn làm cho Ngài tin đến mưc độ hiển nhiên, có một đấng Thượng Đế tuyệt đối, có ngôi vị và tạo dựng vạn vật.

Bismarck, một võ quan và cũng là chính khach nổi tiếng của Đưc: "Người có trí khôn mà không nhìn biêt, hay chẳng muốn nhìn biết có Thiên Chúa, thì anh không hiểu sao họ không chêt quach đi, vì chán nản và bị khinh bỉ." (thư viêt cho vợ)

A. Eynieu đã công bố bản thống kê : trong số 432 nhà bac học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biêt lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% cac nhà bac học tin có Thiên Chúa.

Bác sĩ Dennert, người Đưc cũng tuyên bố kêt qủa tìm tòi của ông để biêt quan niệm tôn giáo của 300 nhà bac học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhât thuộc 4 thế kỷ qua. "38 vị tôi không rõ cac ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tưc cũng 92% tin có Thiên Chúa."

Svetlana Staline, con gái nhà độc tài đỏ Staline, sinh ra trong vô thần, huấn luyện trong vô thần, đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo.

Cac bac học vô thần đã trở lại Thiên Chúa giáo: Taraschi Nagai, Alexis Carrel, Bregson...

Paul Williams, là giáo sư của đại học University of Bristol, và là chủ tịch Hội nghiên cứu Phật giáo của Vương quôc Anh “United Kingdom Association for Buddhist Studies”. Năm 1978, Paul Williams gia nhập Phật giáo và hăng say truyền bá Phật giáo, nhưng sau khi đọc sach của Thoma Aquino, một người Công giáo, Paul Williams đã nhận ra niềm tin Phật giáo hoàn toàn bế tăt, ông viêt: “Nếu Phật giáo là chân thực, thì cuối cùng đối với mỗi chúng ta, cuộc sống cực khổ hiện tại chỉ là hư không, hoàn toàn vô nghiã, nhưng nếu đức tin Công giáo là chân thực, thì bấy giờ cuộc sống của mỗi chúng ta có giá trị vô cùng và hoàn toàn viên mãn.” Lễ Phục Sinh năm 2000, Paul Williams gia nhập Công Giáo.

Ông Lục Trung Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ đã là môn sinh của sân Trình cửa Khổng, và chỉ biêt có đạo ông bà tổ tiên, sau gặp Thiên Chúa giáo như gặp được kho báu, ông đã trở về với Chúa. Ông nói: "Ơn cứu độ là chổ tập trung tât cả cac nẻo đường, là chổ độc nhât mà đưc hiếu của loài người, được tiêp vào đưc hiếu thảo siêu nhiên mà Đưc Giêsu Kitô đã dạy, và đã cho chúng ta hưởng thụ, để kêt hợp tât cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời."

Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim Sơn, Ninh Bình, Băc Việt. Vì tiêp xuc với tín hữu Thiên Chúa giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã đọc Phuc Âm, đã nhận ra tính cach siêu việt của Đưc Giêsu Kitô, Con Trời giáng thế. Ông nói: "Tôi đọc Phuc Âm một cach thành kính. Tôi nhận thấy Đưc Giêsu Kitô không phải chỉ là nhân vật khac thường, Ngài chính là Con Thượng Đế, đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phuc Âm."

Ông Trịnh Sùng Ngô, Giáo sư triết Đại học Honolulu , nguyên Đại sứ Trung Hoa Dân Quôc tại Vatican . Sau khi trở lại ông giup nhiều bạn hữu biêt đạo, ông đã đem hêt tâm trí vào việc dịch Thánh Kinh ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: "Thiên Chúa giáo là đạo bởi Trời. Người ta lầm cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á châu, không cũ, không mới. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đưc Giêsu, và ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Từ nay sự sống và bản thể tôi được đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa, tôi đã không thiệt gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện."

Họa sĩ Nhật Foujita, dòng dõi tướng quân Samourai, đã giup triều đình Mikado, từ thế kỷ thứ 8 đến thếkỷ 12. Thân sinh ông là sĩ quan câp tướng trong Bộ Tham Mưu Hoàng gia. Sau khi tôt nghiệp trường mỹ thuật Đông Kinh, Foujita được gửi qua Âu châu, để tiêp xuc với mỹ thuật Tây phương vào năm 1912. Đến Paris , Foujita được tiêp xuc với cac danh họa như Picasso, Van Gough, Renoir, Gauguin....được quan sat những tac phẩm ở cac bảo tàng viện và cac Thánh đường. Oc thẩm mỹ tế nhị làm cho ông chóng nổi tiếng. Năm 1919, 1920, 1923 ông đã trưng bày nhiều tac phẩm gía trị. Năm 1924-30 ông chỉ huy trang trí Khu NhậtBản ở CâuLạcBộ ĐồngMinh, được huy chương của hai nươc Phap và Bỉ. Năm 1931 ông qua Mỹ, năm 1933 qua Roma, về Nhật năm 1949, ông và cả giađình lãnh PhepThánhTẩy tại nhà thờ Reims. Ông đã mãn nguyện trở nên con Chúa. Ông nói: "Sự nghiên cứu mỹ thuật Tây phương đã đưa tôi đến những sáng tac của Thiên Chúa giáo, làm cho tôi bươc vào một thế giới siêu phàm, ở đấy tôi nhìn thấy Thượng Đế. Những kiến truc vĩ đại, những kiệt tac về điêu khăc, hội họa của Thiên Chúa giáo làm cho tôi rung động tâm hồn, khiến tôi say mê tìm hiểu đến thỏa mãn. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Thượng Đế và nhât quyêt trở về với Ngài."

Ông Mashaba, một học giả Ấn độ, sinh tại Bihar . Ông được du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành chánh, ông không nhận một công tac nào trong khối Liên hiệp Anh; sẵn có khuynh hướng về thần bí học, ông đã sống độc thân để nghiên cứu về cac tôn giáo. Ông nói: "Sở dĩ mỗi tôn giáo công dụng khac nhau, vì mỗi giáo tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cach cứu giup theo khía cạnh đó. Bởi thế có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giup tu thân cứu đời, công bằng bac ái, nhưng không tôn giáo nào đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phuc, và có nhiều đặc điểm mà cac tôn giáo khac không có, như:
Vị giáo tổ bởi Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trươc từ mấy ngàn năm trong lịch sử hẳn hòi, khac hẳn với những giáo tổ khac, chỉ là người trần tục.
Có từ Trời xuống lập đạo, thì đạo đó mới có khả năng đưa con người về Trời.
Đạo Trời thì như thuốc trường sinh, dùng thuôc này thì không cần thuôc nào nữa; vì cac đạo khac chỉ xoa dịu, hay làm quên đau khổ trong thời hạn, còn ĐạoTrời chẳng những cứu khổ, còn ban cho con người sự sống đời đời, đó mới thật là ươc vọng cao nhât của mỗi người.
Đưc Giêsu chiến thắng sự chêt, đã sống lại và về Trời, bảo đảm cho cuộc hành trình và niềm hy vọng vững chăc của người tín hữu.
Vì mang săc thái siêu phàm và chứa đựng những gía trị cao thượng vượt mưc, nên Đạo Trời thường bị gen tị, hiểu lầm hay lấn ap, thế mà vẫn phat triển điều hòa, vẫn vững bền giữa mọi gian lao thử thach, khiến cho nhiều người trươc kia thờ ơ lãnh đạm, hay thù get, phải tìm hiểu và cảm phục, và từ đó trở nên tín hữu nhiệt thành.
Ông kêt luận bằng một ví dụ: trươc khi mặt trời mọc, người ta đã thấy ánh sáng của Đạo Trời chiếu vào nhân loại, trươc khi chính Con Trời giáng thế làm sáng tỏ hẳn Đạo Trời. Nay ngày của cuộc đời đã đến luc chính ngọ, thì không ai mà không được ánh sáng của Đạo Trời soi tới.

J.J Rousseau có ý mỉa mai những ai cho rằng câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu là bịa đặt, như sau: "Bịa đặt như thế thì không được; đến nổi tac gỉa bịa đặt, (nếu có) chăc chắn còn lạ lùng hơn anh hùng trong cuốn sach."

Tổng Thống George Washington: "Không thể có một chính phủ đúng, khi chính phủ đó phủ nhận Thượng đế và Kinh thánh."

Tổng Thống Abraham Lincoln: "Kinh Thánh là qùa tặng qúy nhât mà Thượng Đế đã ban cho nhân loại."

Tổng Thống Dwight Eisenhower: "Văn minh của chúng ta được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh."

Tỗng Thống Andrew Jackson: "Kinh Thánh phải là nền tảng cho thể chế của chúng ta."

Một bác học người Mỹ, có ý mỉa mai và đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:
Trong con người có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.
Máu chứa chất săt, đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.
Có một số chất vôi đủ quet một bức tường nhỏ.
Đôt ra than, có thể làm được 65 cây viêt chì.
Chât phôt phat đủ làm được hộp diêm.
Và chât muối, hai muỗng nhỏ.
Bán những thứ đó được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.

Cái chêt của Voltaire: Voltaire là kẻ vô thần. Ông cố hạ bệ Thiên Chúa và đánh phá Giáo hội Công giáo. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm, lấy tên là “Beelzebuth”. Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: "20 năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài." Đúng 20 năm sau, năm 1773, Voltaire tăt thở trong cái chêt thê thảm. Ông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông la lên: "Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa...Đây qủy muốn băt tôi...Tôi trông thấy hỏa ngục." Ông tru tréo gầm thet như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa thuòng giup người hâp hối, sau khi chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói: "Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hâp hối, tôi không còn muốn thấy một người vô đạo chêt nữa." Một người khac cũng chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói: "Nếu qủy có thể chêt được, cũng không chêt dữ như Voltaire."

Hỏa ngục. Năm 1917, Đức Mẹ Maria hiện ra với ba trẻ tại Fatima , nước Bồ Đào Nha, đã cho cac em thấy hỏa ngục và các em mô tả lại như sau: "Đức Mẹ cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đât. Chìm ngập trong lửa này là qủy dữ và cac linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị cac ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phat ra từ thân hình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rơt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mât thăng bằng, và giữa những tiếng la het và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiêp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Cac qủy dữ có thể phân biệt do cac hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiêp và chưa bao giờ thấy, tât cả đều đen đủi và trong suôt. Thị kiến này kéo dài một luc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biêt ơn cho xứng với Mẹ yêu dấu trên trời của chúng con, Đấng đã báo trươc cho chúng con trong lần hiện ra thứ nhât, khi hứa rằng Ngài sẽ đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chêt điếng vì sợ hãi và kinh khiêp"

Hy vọng mấy trang sưu tầm này, không vô ich cho những ai khao khát chân lý.

NguyễnHyVọng
 







TRƯNG TRIỆU NGUYỄN THỊ THANH VIẾT VỀ CỰU ĐT. TH.T. TRẦN THIỆN KHIÊM





Thứ Sáu, ngày 22 tháng 10 năm 2010

Ts. Bs Nguyễn Thị Thanh viết về Cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm 

 ***

 

TRƯNG TRIỆU NGUYỄN T. THANH 
VIT V CỰU ĐT. TH.T. 
TRẦN THIỆN KHIÊM
 
      
Kính thưa Quý Vị,
 
Bài viết nầy hơi phứt tạp và bất thường, vì nó vừa chứng minh cho tôi vài sự thật và cũng cũng vừa giải thích những vài tâm tình oan khúc của vị cựu Đại tướng Thủ tướng Trần hiện Khiêm của VNCH mà thiết tưởng rằng trên cuộc đời nầy khó ai có thể hiểu thấu cho ông.  
Tôi xin phép quí vị nghe tôi tâm sự rõ ràng đầu đuôi để khỏi có sự hiểu lầm rằng chuyện khó hiểu, tôi tôi khoe khoang, hay nhiều lời chi dông dài, vì hằng ngày quý vị luôn nghe khôn xiết chúng nhai đi nhai lại không ngừng suốt từ 3 năm nay trên các DĐ những lời vu khống điêu ngoa, những lời mạ lỵ xảo quyệt, những lời xúc phạm đểu giả nhắm vào cá nhân tôi, công việc, lòng yêu  nước của tôi, bằng cấp cùng sự nghiệp của tôi với những chữ “Thanh thủm”, “con CS bưng bô” “con đĩ thập thành”, “con điếm đỏ đít giang mai”, “con bác sĩ CS sát tử 32 nhân mạng”, “con bác sĩ dỏm” “bằng cấp giả dối cạo gọt tẩy xóa”, “ta đóng cọc, đóng cạc trong họng mi”, “đổ tùng phân vào mặt mi”..vv…và vv… do 4 tên Nhữ Văn Úy, Ngô Túy Phượng, Trần đình Ngọc, Việt Sĩ… vv…
 
Ai có phải sống trong bi thương đau khổ do bị người khủng bố, hãm hiếp tinh thần đến cao độ mới hiểu được những tâm tư kinh hoàng của người khác cũng bị như mình mà nhất là trường hợp vô phuong minh chứng nổi oan.  Vì vậy bài tâm sự tường tự thuật nầy đồng thời cũng nói lên nhiều điều quan trọng liên quan đến  cựu đại tướng thủ tướng Trần Thiện Khiêm của VNCH đã từ chức rất lâu trước ngày 30 tháng Tư 1975 (xin nhớ ThT VNCH cuối cùng là Nguyễn Bá Cẩn), đây là 1 cải chính nhỏ.   
Thông thường người ta lên tiếng bênh vực ai vì nhiều lý do:
a-Vì lệnh tuyệt đối của cấp trên.
b- Vì công lý, vì sự thật: Như những người CG bênh vực đạo Chúa Giêsu. 
c- Vì có nhiều tiền, càng rộng rãi bỏ ra càng sai khiến nhiều người phục vụ.
d- Vì tình yêu người ta có thể hy sinh binh vực kẻ bị hàm oan.
e- Vì ơn nghĩa vật chất mà người tri ân hết tình trả nghĩa.
g- Vì giá trị vĩ nhân, chí sĩ, người ta không ngại hy sinh, như đối với những vị anh hùng Trưng Triệu, Nguyễn Trãi, và TT Ngô Đình Diệm….
h- Vì ơn nghĩa tinh thần.
i-  Vì lợi ích quốc gia dân tộc….
 
 Tôi xin thưa với toàn thể đồng bào nội ngoại rằng, mổi lần tôi mở lời thì luôn là thành thật và thẳng thắn, vì đời tôi chỉ biết nói thật và nói thẳng, dẩu biết rằng sẽ những kẻ tiểu nhân miệng “ngậm máu phun người” ranh ma hơn quỉ vương không hiếm trong đời, vì trả thù chuyện nhỏ nhen mà hiềm khích đố kị, ganh tị cố tình chà đạp, biếm nhẻ để tự nâng ta và vì sức mạnh đồng tiền dơ bẩn mà tìm “mồm loa mép dãi” bịa đặt trăm chuyện, vu khống ngàn lời đến độ in vào não bộ chúng như là sự thật tất nhiên, mọi mạ lỵ, xỉ vã, bôi nhọ, hãm hiếp tinh thần tôi từ 3 năm nay như mấy tên quái khách trên DĐ mà quí mổi ngày tò mò đọc hay nhờm gớm bôi bỏ. 
Nay với tôi thì vì với hai lý do cuối cùng “h- Vì ơn nghĩa tinh thần” và “i- Vì lợi ích quốc gia bức thiết” tôi xin đưa lên các DĐ những ‘tâm sự nhận định chứng minh về những lời chia sẽ về bãn thân tôi cùng như những hiểu biết rất khoa học tâm lý về vị Cựu Đại tướng Thủ tướng VNCH Trần Thiện Khiêm (ĐT TTK).
Trước hết xin nói về lý do ‘ơn nghĩa tinh thần’ : Tôi xin phép tâm sự đầu đuôi để quí vị thấy rõ hoàn cảnh một người con gái hiếu thảo với Cha Mẹ, trung kiên với Tổ quốc, nhân ái với toàn dân, nên mới có thể có những hành động lạ lùng trái ngược với mọi khôn ngoan bình thường của người đời.
Nguyên thánh 8 năm 1967 tôi từ bỏ hành nghề bác sĩ nội trú trong các bệnh viện Paris Pháp mà nhận lời mời (có thư mời nếu ai cần xem) qua Canada dạy môn Nhân Sinh lý học (Physiologie humaine) trường Đại học Moncton tại Moncton New Brunswick với chồng là Tôn Thất Đán chuyên dạy về Kinh tế học.  Nếu tôi cứ tiếp tục dạy thì tương lai của tôi thật êm đềm với hạnh phúc riêng tư, nhưng tôi chỉ đi dạy để chờ chồng lo xong luận án Tiến sĩ kinh tế để cùng về góp công giúp nước (tôi đã xong Tiến sĩ Y khoa quốc gia Paris trước).
Nhưng sau đó vợ chồng tôi gặp ông BS. Tổng trưởng Trần Lữ Y trông coi 3 bộ (Y tế, Xã hội và Cứu trợ), chồng tôi có tình bà con xa với ông Lữ Y, mới khoe với ổng là có vợ là Tiến Sĩ Y khoa Paris lại kiêm thêm chứng chỉ chuyên môn về Vệ Sinh Công Cộng, Y tế-Xã hội. Nghe như vậy ông Lữ Y sáng mắt lên kêu gọi tôi về nước làm việc (có thư của Bs Trần Lữ Y chứng minh), vì VN không hề có ai chuyên môn như tôi.  Sở dĩ chồng tôi bằng lòng cho tôi về trước vì anh ấy cần tôi làm việc với chính quyền VNCH thì mới mong có đủ tài liệu nạp một luận án kinh tế về “Kinh tế thời chiến VN” (Économie de guerre du Việt Nam) tại Đại học Kinh tế Paris.
Về nước BS. Tổng trưởng Trần Lữ Y giao ngay cho tôi trông coi Bộ Y tế - Xã hội, lúc đó BS. Trần Ngươn Phiêu là Phụ tá đặc biệt của TTr. Lữ Y, ngồi tại bộ Xã hội, nên tôi quen biết (hiện BS Phiêu có mặt trên DĐ: phieutran@sbcglobal.net). Thời gian nầy tôi đã đại diện bộ trưỏng Y tế Xã hội đi dự lễ cắt băng khánh thành Cô Nhi Viện SOS ở Gò Vấp, ngồi cạnh bà Thiệu.  Tôi bèn giao cho bà một tập gồm kế hoạch về 10 chương trình hoạt động xã Hội do tôi soạn thảo từ ngày về nước.  Sau đó phu nhân TT Thiệu mời tôi vào dinh Độc Lập thuyết trình cho phu nhân và TT Thiệu nghe về các chương trình nói trên.  Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận giao cho 10 kế  hoạch cho Thủ tướng Trần Văn Hương. Ông Hương gọi BS TTr. Trần Lũ Y lên la rầy cho một trận, bảo sao có 10 chương trình hay vậy mà không cho ổng biết lại đi tắt lên đưa cho TT Thiệu.
Ông Lữ Y liền kêu tôi lên la rầy; tôi yêu cầu ông hỏi ngay Đổng lý văn phòng của ổng là Chữ Ngọc Liễng. Ông Liễng liền đem lên 10 tập tài liệu đã đánh máy đóng thành tập rất đẹp, nhưng lại yểm đi nhiều tháng trong tủ không hề trình lên tổng trưởng.  Lúc đó TTr. Lữ Y mới bằng lòng cho tôi thi hành các chương trình Xã hội khẩn thiết cho quốc gia. Nhưng tiếc là công việc chưa đi đến đâu, ông Lữ Y rớt xuống.  BS Trần Ngươn Phiêu lên thay thế coi Bộ Xã Hội, Trần Minh Tùng coi Bộ Y tế thì mọi chương trình của tôi đều bị bỏ hết.  Bs. Trần Minh Tùng đề cử tôi làm Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng (BVNĐ).  Nhưng Đổng lý văn phòng Bộ Y tế là dược sĩ Trần Văn Nhiều khuyên tôi còn trẻ chưa nhiều kinh nghiệm ở BVNĐ ở Sài Gòn, nên hãy nhận làm Phó GĐ nhường chức GS. Tuân tiếp tục làm GĐ BVNĐ vì ổng sắp về hưu, tôi chán đời từ chối trở về mở Clinique tư tại biệt thự riêng mà tôi mua ngay ngày về nước tại 320 Phan Thanh Giãn, nay cũng đã mất.
Qua năm 1972 tôi đem con đi Pháp thăm chồng. TTr. Bộ Nội vụ lúc đó là ông Trần Thiện Khiêm. Ông Khiêm nói với tôi “Bà là trí thức qua Pháp, tôi xin bà hãy nói lên cho thế giới biết về tình hình chiến tranh VN.”  Tôi bằng lòng ngay.  Ổng Khiêm bèn viết thư giới thiệu tôi với Tòa Đại sứ VNCH tại Paris.  Ông Đại tá Tham tán Quang tại Tòa Đại sứ tổ chức cho tôi đi thuyết trình chống “CSBV gây chiến tranh tại Miền Nam VN” nhiều nơi tại Pháp.  Việc thuyết trình cho người VN và Pháp gây ảnh hưởng, coi như là một thành công lớn.  Nhưng than ôi quá trể, vận mệnh VN đã bị quốc tế sắp xếp xong hết; ngay TTr. Nội vụ Trần Thiện Khiêm khi ấy cũng không biết.
Đầu năm 1973 tôi về nước và ĐT. ThT. TTK nhờ cha Cao Văn Luận mời tôi vào nói chuyện.  Đây là buổi nói chuyện quan trọng đối với tôi. ĐT Khiêm mời tôi làm Thủ lãnh Phụ Nữ Nhân Dân Tự Vệ toàn Quốc với 11 triệu người (lời ông TTK). Buổi nói chuyện kéo dài trên 3 giờ đồng hồ; ThT Khiêm cho tôi Carte Blanche, Chèque Blanche và mọi tự do để làm việc.  Khi đưa tôi ra xe, ông Chánh Văn phòng phủ thủ tướng nói với tôi rằng “ĐT. ThT. Khiêm rất ít nói, thường chỉ tiếp khách chừng 15 phút thôi, với bà lại nói chuyện từ 4:45 đến 8:20 là chuyện quá đặc biệt từ trước đến nay”, tôi cười.
Là một bác sĩ tâm lý, tôi đã quan sát ĐT. ThT. TTK: về tướng mạo, tư cách, lời nói, tính tình, tâm tư, tình yêu nước, thương lo cho dân, quí trọng nữ giới và lo chống CS như thế nào qua trên 3 giờ nói chuyện rất cởi mở và tâm đắc.  Tôi hỏi ổng: «ĐT. ThT giao phụ nữ toàn quốc cho tôi như vậy, mà phụ nữ chiếm 2/3 hay ít lắm cũng 3/5 dân số nếu có bầu cử, tôi sẽ thắng ĐT. ThT. ngay.» Ông cười vui, thật thà, hiền hòa bảo rằng «Không can gì, nếu được như vậy thì không có gì mà tôi mong ước hơn.».  
Lúc đầu ĐT ThT đề nghị tôi đóng bãn doanh ở phủ thủ tướng. Tôi nói ngay không được, vì như vậy bất cứ người nữ NDTV nào muốn gặp tôi thì làm sao cho dễ dàng. 
Ông để tôi tự do chọn bộ nào cũng được…vv….  Đây là những tài liệu lịch sử về ĐT. ThT. Khiêm mà tôi là nhân chứng.  Tôi thán phục ổng vì ổng hiểu được tôi, biết tâm tư, tài ba, can trường và quyết tâm của tôi đối với đất nước, lại tin tưởng vào tôi một cách tuyệt đối chẵng khác gì cha mẹ tôi hiểu và tin tôi.
Có lẻ trong đời tôi, ngoài cha mẹ tôi, LM Trần Hữu Thanh là cha thiêng liêng của tôi, thì ĐT. Trần Thiện Khiêm là người tôi biết ơn sâu sa, thâm trầm và thán phục ổng. Đó là nguyên nhân thứ nhất mà tôi phải lên tiếng về ổng hôm nay.
Sau đó bà phu nhân và chồng là Trung tướng Cao Hảo Hớn, Thủ lãnh Nam NDTV đến mời tôi đi chơi bất ngờ, té ra là vào dự tiệc lớn đặc biệt đông đúc đãi tôi tại Tòa Đại sứ Mỹ, để họ xem mặt và nghe tôi nói chuyện, đặc biệt là một nhóm lãnh đạo Mỹ cao cấp chất  vấn tôi suốt mấy giờ đồng hồ, hoàn toàn bất ngờ.  Đến đó tôi mới hiểu việc ông ĐT TTK mời tôi làm thủ lãnh PNNDTV toàn quốc phải có sự đồng ý của Mỹ.  Nhưng tiếc thay tình hình chính trị VN lúc đó chẵng còn hy vọng gì nữa mà cả ông ĐT ThT. TTK cũng không biết, đã chậm quá mất rồi.  Nhờ tất cả còn trong vòng sửa soạn bí mật mà tôi không bị CSVN bắt đi hoc tập cải tạo.   
Nguyên nhân thứ hai khiến tôi lên tiếng về ĐT TTK là nhờ vào việc tôi quan sát về cá nhân ông Trần Thiện Khiêm.  Theo con mắt BS. tâm lý của tôi thì ĐT TTK là người rất tình cảm, hiền lành, dễ thông cảm, ăn nói từ tốn, cương quyết, ý nghĩ thâm thúy, có nhiều thiện chí, tính tình rất thận trọng, hành động cân nhắc, có bản lĩnh âm thầm, dễ bị thuyết phục, dễ chìu lụy.  Người ta cho ông là người ít nói, là nhút nhát, nhưng tôi thấy ông ăn nói thoãi mái đầy đủ, biết cách thu phục lòng người, có gan ngầm. Và sau nũa đây là những hiểu biết nhờ ba tôi và bạn bè của ba tôi cho biết.   
Chúng ta vốn biết cả 2 chế độ CS Miền Bắc và QG Miền Nam vốn phụ thuộc vào những bàn tay xếp đặt quốc tế. Vì vậy những gì xẩy ra ở VN đều bị các cường quốc chi phối.  Lãnh đạo cả hai miền Bắc, Nam không biết gì cả, đó cũng là lý do khiến Miền Nam lọt vào tay CSBV một cách bất ngờ cho chính cả CSBV.  
Năm 1960 Đại tá TTK đã đem Sư đoàn Mỹ Tho về cứu ông Diệm, thành công nhanh chóng, ổng trở thành người Cụ Diệm tin yêu và trọng dụng số một.  Cụ giao cho ông TTK thay mặt Cụ chỉ huy QLVNCH.  Do vậy Mỹ muốn chi phối TT Diệm là phải lại nhắm bắt vào ông TTK.  Ông TTK dần dần không ngờ bị lặn sâu vào sào huyệt của Mỹ, phụ thuộc Mỹ mà không thế nào gở ra được nếu muốn sống.
Đến khi người Mỹ muốn lật đổ TT Ngô Đình Diệm lại ra lệnh cho ông TTK, ông Khiêm sợ mang tiếng ‘phản thầy’ nhưng cũng không thể từ chối lệnh của Mỹ.  Ổng bèn đẩy qua cho DVM, DVM và đồng bọn ĐM đang ghét cay dắng TT Diệm vì tư thù. Bon DVM như mèo gặp mở, nhưng không có thực quyền làm gì cả; nên ông TTK lại phải là người đứng ra kêu gọi tướng tá.  Đến khi sự việc xẩy ra, nhóm tướng DVM, ĐM… vốn thù ghét TT Diệm, trở thành ‘’kiêu tường’, cương quyết giết anh em TT Ngô đình Diệm để trừ hậu hoạn, thì TTK lại cố cứu nhưng vô phương với đám ‘kiêu tướng’, nổi oan nầy ai thấu cho.  
Vào giờ phút đó TTK hoàn toàn trở thành cô độc, quyền bính lại nằm trong tay nhóm tướng DVM, ai không đồng ý giết TT Diệm là chúng ỷ số đông làm thịt ngay như hai anh em Lê Quang Tung và Lê quang Triệu. Ông TTK ở vào thế dù có muốn hy sinh cũng không cứu được an hem TT Diệm.  Nổi hận lòng của TTK là đành nhìn bọn DVM giết 3 anh em TT Diệm. Đó là niềm tâm sự của một con người hiền lành tình cảm, vốn có lòng trung hậu mà đành mang tiếng phản bội đối với ân nhân là TT Diệm.  Điều nầy ông TTK không hề nói ra với ai, nhưng ba tôi và các bạn của ba tôi và tôi đều hiểu biết rõ ràng như vậy.
Đầu năm 1973, ĐT TTK mời tôi làm thủ lãnh PNNDTV thì tôi đã biết ông mặc dầu là có lòng vì đất nước, nhưng vẩn muốn lợi dụng tôi cho tương lai chính trị lâu dài của ổng. Tôi cũng biết lợi dụng lại để giúp nước, giúp nữ giới,  giúp xây dựng một xã hội lành mạnh thịnh vượng như chủ trương của sự học của tôi.  Tôi hoàn toàn mờ mịt về vận mệnh VN mà quốc tế đã xếp đặt, tuy chồng tôi đã cho tôi hay và trở về VN đòi đem 3 mẹ con tôi trở lại Canada lập tức, nhưng tôi không tin là VNCH Miền Nam sắp mất. Mà ngay ĐT TTK cũng không hay biết gì cả.
Chính người Mỹ đến thuê nhà biệt thự của tôi với giá 450.000/tháng trả trước 4 năm.  Tôi thấy được giá quá, vì với số tiền đó tôi dư sức mua 1 biệt thự khác. Tôi đòi giữ lại Phòng mạch họ không chịu, nên tôi không cho thuê, nay cũng đã mất rồi.  Nay nghĩ lại tôi nghi là người Mỹ muốn cứu cho tôi căn nhà, vì đó là bao nhiêu mồ hội nước mắt tiết kiệm của tôi ở hải ngoại.
Bây giờ khi nói đến 35 năm qua ĐT ThT TTK sống trong ẩn dật và im lặng. Theo tôi suy nghĩ, đặt giả thuyết, ông ĐT. TTK thành công trước mặt mọi người về công danh sự nghiệp, nhưng nổi ân hận đã mang tiếng giết TT Diệm chưa nguôi thì sự nghiệp của TTK đã bị cựu TT Thiệu đánh phá năm 1973 làm ông thêm buồn.  Nay lại mất nước một cách oan uổng vào tay CSBV thì làm sao ông không khỏi có mối hận lòng bâng khuâng mà không mở miệng đổ lỗi được cho ai thì còn có gì nữa mà nói.
Nguyên tôi vốn chơi thân tình với bà Nguyễn Gia Hélène, chủ Thẩm Mỹ Viện số 50 đường Lê Lợi Q1 Sài Gòn. Tôi giúp bà mở khoa Giải phẩu Thẩm mỹ, cùng chung mở Viện chế thuốc mỹ phẩm trị bệnh phát phì, trị da nhăn cho người già trước tuổi cả đàn ông lẩn đàn bà cho tôi.  Bà Hélène là vợ Đại tá công binh Đoàn Bá Kiệu và là bạn thân với phu nhân Thủ tướng TTK.  Chính bà đại tá Kiệu Hélène cho tôi hay là vợ chồng cựu TT Thiệu mời vợ chồng cựu ThT. Trần Thiện Khiêm ăn cơm, rồi giam lại 3 ngày trong dinh Độc Lập, buộc ông Khiêm từ chức.  Sự việc nầy rất là bí mật.  Hiện chắc chắn vợ chồng cựu Đại tá công binh Đoàn Bá Kiệu còn sống bên Mỹ.  Vào những ngày dầu sôi lữa bỏng ở Sài Gòn vào cuối tháng Tư/1975, chính bà ĐB Kiệu hứa sẽ đem 3 mẹ con tôi xuất ngoại với bà.  Nhưng rồi bật vô âm tín.
Tôi không rõ sự bí mật mà phu nhân Đại tá ĐB Kiệu nói trên đúng hay sai như thế nào, và cũng không nhớ ĐT. Khiêm từ chức vào lúc nào và công việc làm lãnh tụ PNNDTV của tôi bị hủy bỏ như thế nào.  Ông Cựu ĐT ThT TTK còn nợ tôi vụ nầy vì bãi bõ mà không cho tôi hay. Cũng như TTr Trần Lữ Y, ThT Khiêm mời làm thì có mời, mà nghỉ việc thì bỏ đi luôn không một tiếng nói.
Sau đó năm 1974, tôi lại chống chính phủ với tư cách là Phó chủ tịch Hội Bác Sĩ Công Giáo VN. Tôi cùng các anh BS. Thiếu tướng Vũ Ngọc Hoàn, BS Giám Đốc Viện Pasteur Nguyễn Văn Ái là Cố vấn Hội, BS Nguyễn Tấn Chức chủ tịch/Hội, BS Thu thư ký/Hội, BS Nguyễn Văn Đức…. chúng tôi lo chống vụ kế hoạch hóa gia đình do Mac Namara chủ trương theo kiểu mà GHCG chúng tôi cấm, cùng chống phá thai tuyệt đối với sự giúp đở của Đức TGM Nguyễn Văn Bình.  Cuối cùng chúng tôi đã thắng, Hạ Nghị viện buộc phải xé bỏ hồ sơ dự án cho phép phá thai.         
Nay, sau 35 năm ẩn dật, im lặng, ĐT TTK ẩn dật đến nổi hơi mụ người đi.  Tại sao Cựu ĐT. ThT Khiêm lại tái xuất giang hồ? Tại sao?  Đó là lý do chúng ta cần biết.  Vì chắc chắn không phải là chuyện ngẩu nhiên.
Tôi xin nói lên một sự tiên đoán chủ quan rằng sự xuất hiện của ĐT. ThT. Trần Thiện Khiêm không phải là một việc tự ý của ông Tướng.  35 năm về trước, người ta ẳm ông đi trong một tâm tư sầu khổ, thất vọng tột cùng, và có vẻ như ông giận đời, ông đã lựa chọn sự ẩn thân để….tu thân ( ?)… để suy tư nảo nùng (?)… để buồn đau (?)… cho đất nước… đến độ ông cảm thấy như bị tê liệt (?)… bị đày… bị lú đi (?).  Trong 35 năm mà trí não không làm việc thì bị kiệt quệ ngay,  nay cần phải cho chạy rà, chấn chỉnh lại bộ máy thần kinh mới tỉnh người ra, khác nào chiếc xe để lâu không chạy thì phải chạy ‘roder’ lại.  35 năm sau cần sự xuất hiện của ông thì dầu mệt mỏi với tuổi tác mà cần thiết cho đất nước thì ĐT TTK nào ngại chi.  Đó là trách nhiệm cuối cùng của ông với đất nước, than ôi, đồng bào có hiểu cho chăng ?!
Như tôi đã nói trên là ĐT TTK bị sa vào sào huyệt lúc nào có lẻ ổng cũng không hay dầu là sa vào để làm vua, vua đi đâu, làm gì thì đều có luật lệ.  Khi phải đi thì đi, khi phải về thì phải về.  Có thể rằng ông đâu có quyền tự do muốn làm gì thì làm hay sao?  Bây giờ cần xuất hiện thì phải xuất hiện, vì ĐT. TTK không là người riêng của ông.
Bây giờ đến sự xuất hiện của ĐT TTK. Người ta hiểu quá nhiều về lý do sự xuất hiện của ông hay không hiểu gì cả. Ngã nào thì sự xuất hiện nầy là thiết yếu sinh tử cho sự trở lại của Mỹ ở Biển Đông.  Đó là điều thiết yếu sinh tử thật tình cho Mỹ và cả cho tổ quốc và dân tộc VN.  Vậy thì đó phải là điềm may mắn cho những người VN thật lòng yêu nước và cũng ngay cả người CS có lòng yêu nước, vì CS hiện có 2 phe, phe theo Tàu thì bán nước, phe theo dân tộc thì muốn chống lại, nhưng làm sao chống lại cường quốc TC nếu không có Hoa Kỳ.  Như vậy lời ông ĐT TTK nói : 
«Dù Cộng sản hay Không Cộng Sản thì  họ cũng có tinh thần dân tộc yêu nước. Kết án bây giờ hẵn có sự sai lầm chăng? »
Vì CS tức CSVN, và ‘không CS’ là ai, nếu không là người VN quốc nội và CĐ NVQGHN.  Câu nói của ông TTK thâm thúy lắm đấy, chỉ phải cái là vắn tắt khiến sinh ra hiểu lầm, chứ không phải già rồi nói lẩm cẩm đâu.  Ông cũng thâm thúy mà cho rằng những người ‘không cộng sản’ không phải ai cũng yêu nước.  Trách ông im tiếng 35 năm làm chi, trong khi một số NVQGHN xưng là yên nước, là chống cộng mà ra hải ngoại ngồi chưởi nhau, đánh đấm nhau, bôi nhọ, chặn họng, bịt miệng, đóng cọc vào họng, bỏ vạ cáo gian cho bất cứ ai muốn có tự do ngôn luận, bất cứ ai muốn tìm một chiến lược thực tế, khả thi hầu cứu nước thoát khỏi xâm lăng Tàu cọng.  Câu ổng nói :
«Kết án bây giờ hẵn có sự sai lầm chăng? »
Mà kết án ai, và ai kết án ?  Chính NVQGHN tự kết án người mình chứ còn ai vào đây, mà trong đó có cả ĐT. TTK, có cả các vị nào đó, có cả tôi.  Đó là cái nghề chụp mủ, nghề vu khống bịa đặt trăm câu nghìn chuyện gian ác để đè đầu bóp họng người yêu nước.  Ngay một cái chuyện trẻ con 2 tuổi là cái chuyện bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia của Đại học Paris Pháp mà một thằng già tự khoe là dân biểu gì gì đó, sống ngay tại Pháp mà cũng không biết nó có phải là được cấp phát từ Đại học lớn nhất của nước Pháp hay không nữa, nên cứ tự khăng khăng cho là bằng giả, cạo gọt như chính nó hay làm ở VN, thì chúng nó còn làm được cái nghề ngổng gì mà không sai lầm.  Phải chăng đó là biểu tượng hùng hồn nhất của một số người làm ĐT. TTK phải thấy rằng cần im tiếng trong 35 năm để tráng nơi «gió tanh mưa máu» thì tốt.        
Trong hơn tuần nay người ta đua nhau đánh phá chưởi rủa thậm tệ đến cạn tào ráo  máng, đến tận diệt, tận triệt tiêu ĐT TTK ? Tại sao ? Chưởi như vậy thì lợi cho ai ?  
Trung Cộng hiện đang nổi xung thiên lên khi thấy Mỹ quyết liệt can thiệp vào Biển Đông và đòi phải nói chuyện Đa phương.  Rồi đây TC còn đâu hy vọng chèn ép VN để cướp Biển Đông và hai quần đảo HS và TS của VN nữa, hay chúng đang run lên.  
Thứ nữa là nhóm CSVN thân Tàu muốn bán tươi bám sống Biển Đông muốn vòng tay dâng hiến đất nước Việt Nam cho Tàu cộng cũng  hết còn hy vọng làm quan thái thú của chú Chệt, nên chúng tức giận, chúng sợ sự xuất hiện của ĐT TTK quá, chúng phải phun tiền mướn đàm em chười, phỉ báng, «uýnh» tới tấp, «uýnh» tưới lên mặt mủi cho cựu ĐT. ThT. TTK tối tăm mặt mày sợ chạy không dám xuất hiện nữa vì họ vốn biết ông Khiêm không bạo gan lắm trong tuổi già, hoặc là ông có thể ngã xĩu hết còn sức bước tới.  
Vì chúng biết hiện tình thế NVQGTNCSHN không có ai khả dĩ có thể có tư cách tối thiểu làm sợi giây buộc mối Đại đoàn kết cho dân tộc VN ngoài ĐT TTK. VN có Đại đoàn kết mới mong còn Biển Đông cho VN, cho Mỹ, cho Đông Nam Á  và cho cả thế giới. VN có Đại đoàn kết mới trông mong Tổ quốc VN có độc lập, toàn dân VN có tự do dân chủ, và chủ nghĩa Mac-Lê không còn đất sống trên đất nước VN. Đó là luật của Trời, và cũng như là luật của người mà Hoa Kỳ đang nghiên cứu cho Biển Đông của VN và ĐNÁ.
Bài viết cũng đã quá dài, hết lòng cám ơn Quí Vị đã kiên nhẩn đọc.
Kính chào may mắn cho Tổ quốc và Dân tộc chúng ta.
TS. BS. Nguyễn Thị Thanh