........
Khổng Tử: "Duy
Thiên vi đại" (Chỉ có Trời là lớn nhất)
"Nhân tri nhân bất khả dĩ bất tri Thiên."
(Người còn biêt nhau, không thể mà không biết Trời được.)
"Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú."
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no, mặc ấm, sống vô đạo, thì có hơn gì con vật.)
"Nhân tri nhân bất khả dĩ bất tri Thiên."
(Người còn biêt nhau, không thể mà không biết Trời được.)
"Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú."
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no, mặc ấm, sống vô đạo, thì có hơn gì con vật.)
Chu Tử: "Thượng
đế gỉa, Thiên chi Chúa tể giả." (Vua trên hêt là Chúa trên trời.)
Đỗ Trọng Thư: "Thiên giả vạn vật chi
tổ." (Trời là gốc của vạn vật.)
Triêt gia
Pascal: "Nếu
bạn muốn tin vào Thượng Đế, phải qùy xuống"
Bác học
Pasteur: "Càng
nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế."
Bác học
Becquerel: "Nhờ
nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin."
Bác học Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự
của bầu trời, đã thôt lên: "Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính."
Bác học Pasteur: "Mĩa mai cho lòng dạ con người,
nếu chết là hêt hoặc chết là trở về với hư vô."
Bác học
Bourgeois: "Không
có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng
suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng
thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được
sáng to hơn."
Văn hào Platon: "Những ai có một chut trí khôn,
đều phải kêu cầu Thượng Đế trươc khi băt đầu công việc của họ, dù việc lớn, hay
việc nhỏ."
Bác học
Duclaux: "Nếu
sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự
đều có luật, thì sự xuât hiện kia, nó kỳ dị như hòn đá, tự bò lên sườn núi."
Charles
Dickens: “Kinh
Thánh Tân Ươc chính là cuốn sách tôt nhât đã từng và sẽ được biêt đến trên thế
giới.”
Isaac Newton: “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chăc
chắn về tính có thực hơn bât cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”
Victor Hugo: “Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh
Thánh và Shakespears.
Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Napoléon: “Một dân tộc không tôn giáo, chỉ
phải cai trị bằng súng đạn.”
Schiller: “Trong một nước mà tôn giáo lung
lay, thì không chỉ tôn giaó lung lay, nhưng sẽ lung lay tât cả rường cột quốc
gia: uy quyền quốc gia, sự tôn trọng luật lệ, kỷ cương, đạo hạnh, luân lý.”
Bác học Albert
Einstein: “Khoa
học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe
quặt.”; “Thượng Đế không chơi trò may rủi.”; "Tôi chưa hề gặp
điều gì trong khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo."
Bác học Ampere. Một hôm, có
người nói với nhà bác học câu này: “Ngài thật là vĩ đại vì
đã phát minh nhiều điều hữu ich cho nhân loại”
Ampere đã trả lời: “Con người chỉ vĩ đại khi quỳ xuống
cầu nguyện với Thiên Chúa.”
Giáo sư Edwin
Carlson, nhà Sinh
vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ: "Sự sống phát xuất từ sự tình
cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả của một vụ nổ
xảy ra ở một nhà máy in."
Giáo sư James
Simpson, người
phat minh ra phương phap gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phat
minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được
Chúa Cứu Thế Giêsu.”
Triêt gia Kant: "Không ai chứng minh một cach
xac đáng là không có Thiên Chúa."
Bac học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng
thap Eiffel: " Edison hêt sưc khâm phục và ca ngợi tât cả kỷ sư, trong đó
gồm cả Thiên Chúa."
Pascal: "Người không tin nói, nếu tôi
có đưc tin, tôi sẽ bỏ tà dâm. Nhưng tôi bảo anh, nếu anh bỏ tà dâm, anh sẽ có
đưc tin."
Văn hào
Bossuet: "Những
chân lý đời đời không thay đổi của luân lý, buộc ta phải tin có một Đấng Tạo
Hóa."
Triêt gia
Brunetter: "Đã
từ lâu, tôi cố gắng tìm kiếm một nền luân lý vô tôn giáo. Trươc hêt, tôi thấy
rằng điều này khó thực hiện, sau tôi thấy rằng qúa liều lĩnh, cuối cùng tôi
thấy rằng không thể được. Tôi một người thuộc nhóm Tự Do Tư Tưởng. Tôi băt đầu
nghiên cứu Thiên Chúa giáo. Tôi đã học hỏi rât lâu, suy nghĩ rât cẩn thận, cuối
cùng tôi phải nói rằng, chân lý ở phía chân trời đó."
Giáo sĩ Moreux, giám đôc đài thiên văn Bourges :
"Tôi liên lạc với cac vị giám đôc thuộc hêt mọi đài thiên văn trên thế
giới, tât cả đều tin có Thiên Chúa."
Charles
Nicolle, người
đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí
nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người
tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”
Nhà Thần Học
Millard J. Erickson: "Nếu có
một Đức Chúa Trời, thì nói một cách khách quan, bạn và tôi không thể làm gì để
giết chết Ngài. Trái lại, nếu không có Đức Chúa Trời, thì dù cố gắng thế nào đi
nữa, không một ai trong chúng ta có thể làm cho Ngài thực hữu được."
Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon
, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép
lạ nhãn tiền tại LộĐưc ( Lourdes , France ). Marie Ferrand, từ một cô gái săp
chêt, trở nên lành mạnh tưc khăc, ông nói: “Thật là một chuyện không thể có
nhưng có thực. Qủa là bât ngờ, một phep lạ mới xẩy ra.” Không dám tin ở mình.
Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xac nhận cô đã
hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo, trước
khi về Nhà Cha trên trời.
Văn hào Victor
Hugo: "Thượng
Đế là Đấng vô hình xac thực, chối Ngài là mù quáng điên rồ."
Bác học
Chevreul (1786-1889):
“Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo
dựng của Ngài”
Bác học
Diderot: “Chỉ cần
con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”
Bác học John
Eccles, người đoạt
giài Nobel: “Tôi chấp nhận tât cả những lý thuyêt khoa học, nhưng những lý
thuyết này không giải thich một chút nào về sự kiện, làm thế nào, tôi, một sinh
vật biêt suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự sáng tạo linh hồn
là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ nhận được, nó hoàn
toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học”
Ông nói thêm:
“Niềm tin của những nguòi chủ truong duy vật chât đang hao mòn; họ không dẫn
chúng ta đến đâu cả. Thuyêt ‘khoa học duy vật’ đưa con nguòi đến tuyệt vọng,
trống rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề tâm linh, tình yêu thuong, can
đảm, bác ái”.
Taine: “Vô thần xuât hiện thì tính ich kỷ, bon
chen, độc ác và dâm đảng tiến lên”
Richepin: “Nếu thật sự Thiên Chúa chẳng là gì,
thì việc gì cac ông vô thần công kich Ngài và giơ tay chỉ trich Ngài cho mỏi”
D’Alembert: “Cái tính hão huyền không muốn nghĩ
tường như mọi nguòi, là lýdo tạo nên kẻ vô thần hơn là chứng lý sáng tỏ”
LaBruyère: “Tôi muốn thấy một nguòi trong sạch và
tiêt độ tuyên bố rằng không có Thuọngđế, nhưng không thấy ai cả.”
Bacon: “Kiến thức nông cạn đưa nguòi ta xa tôn
giáo, nguọc lại kiến thức sâu sa đưa nguòi ta lại gần tôn giáo.”
Bác sĩ riêng
của Lenine, lúc 83 tuổi,
ông xuât bản hai cuốn sách: “Sự bí mật và sự khôn ngoan của thân xác (1958); và
“Mầu nhiệm của sự sống” (1960). Ông nói: “Môn sinh vật học và môn phân tich tâm
lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần.”
Văn sĩ Francois
Coppée: “Trong những
tháng nằm trên giường bệnh, tôi đã sống với sách Phúc Âm. Dần dần những dòng
chữ của Sách Thánh trở nên sống động trong tôi. Trong mỗi tiếng, tôi thấy sáng
lên một chân lý như một vì sao. Tôi cảm thấy chân lý ấy rung động trong tôi như
một qủa tim. Làm sao từ nay tôi không tin có phep lạ, sau khi đã được phép lạ
do sách Phúc Âm làm nơi tôi? Linh hồn tôi trước kia mù tịt trước ánh sáng đức
tin, bây giờ đã thấy ánh sáng này với tât cả vẻ huy hoàng của nó. Linh hồn tôi
trước kia điếc đặc trước Lời Chúa, nay đã nge rõ ràng và vui sướng cảm phục.
Linh hồn tôi trước kia tê liệt vì không tìm hiểu tôn giáo, lúc này đã nóng nảy
hăng hái bay lên trời. Qủy dơ bẩn mà linh hồn tôi bị ám ảnh, nay đã bị đuổi
đi.”
Nhà thông thái
P. Tichmann: đã viêt nhiếu
sách chống Giáo Hội Công Giáo và Chúa Giêsu. Ông cố sức tìm lý lẽ trong Cựu Ước
đế chứng minh Chúa Giêsu chưa đến, thì ông thay đổi, vì ông thấy lời tiên tri
trong Cựu Ưóc hoàn toàn thực hiện trong Chúa Giêsu. Ông nói: “Cái khăn bịt mắt
của chúng ta thật là dầy, đã làm cho chúng ta không nhìn thấy chân lý rõ hơn
mặt trời.”
Thánh Augustin: "Không ai phủ nhận Thượng Đế,
nếu họ không có lợi gì khi phủ nhận Ngài."
Thánh Lêô Cả: "Cảnh vật thiên nhiên dạy mỗi
người biêt tôn thờ Thiên Chúa."
Thánh vịnh 19:1 : "Tầng trời xưng tụng vinh
quang Chúa, không trung giãi tỏ sự nghiệp Ngài."
Triêt gia
Platon: "Có
thể xây một thành trì trên chín từng mây, dễ hơn cai trị một dân không tôn
giáo."
Chateaubriand: "Tiêu hủy việc thờ tự của Phúc
Âm, thì mọi làng phải xây nhiều nhà ngục và phải có nhiều lý hình."
Wernher Von
Braun (1917-1977)
thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn cắm cờ
Hoakỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976 khi diễn
thuyết tại Philadelphia , Bang Pennsylvania , Ông nói:: "Sự bao la huy hoàng của vũ trụ
đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm. Khoa học và đạo không
mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật,
trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tôt đẹp lạ lùng đó.
Đạo không phải là di sản mà người đời sau hưỡng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng
như khoa học phải thăng tiến. Nguòi tín hữu phải tìm hiểu đạo và nhà khoa học
phải khổ công nghiên cứu mới thành bac học.”
Bác học T.
Termier: "Cứ
chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biêt Thiên Chúa hiện hữu.
Hơn mọi người khac, nhà bac học dù chuyên về khoa nào, bao giờ cũng dễ dàng
nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyêt điểm, có cùng đich
và rât phưc tạp. Do đó, hơn những người dôt nat, nhà khoa học dễ có ý hướng về một
Đấng bât di bât dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhât an bài
mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa. Và cũng
chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên
Chúa."
Giám mục Hulst sau 20 năm nghiên cứu cac vấn đề
triêt học. Ngài có viêt năm 1885 rằng: Ngài đã đọc và suy nghĩ rât nhiều về cac
sach báo cac nhà vô thần tài giỏi nhât, có tiếng nhât, những nhà thực nghiệm,
những nhà phiếm thần đủ cỡ đã viêt. Tât cả những cái đó, không làm khuynh đảo
lòng tin của Ngài, mà còn làm cho Ngài tin đến mưc độ hiển nhiên, có một đấng
Thượng Đế tuyệt đối, có ngôi vị và tạo dựng vạn vật.
Bismarck, một võ quan và cũng là chính khach
nổi tiếng của Đưc: "Người có trí khôn mà không nhìn biêt, hay chẳng muốn
nhìn biết có Thiên Chúa, thì anh không hiểu sao họ không chêt quach đi, vì chán
nản và bị khinh bỉ." (thư viêt cho vợ)
A. Eynieu đã công bố bản thống kê : trong số
432 nhà bac học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biêt lập trường tôn giáo, còn 398
phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92%
cac nhà bac học tin có Thiên Chúa.
Bác sĩ Dennert, người Đưc cũng tuyên bố kêt qủa tìm
tòi của ông để biêt quan niệm tôn giáo của 300 nhà bac học, tìm hiểu trong
những số lỗi lạc nhât thuộc 4 thế kỷ qua. "38 vị tôi không rõ cac ông quan
niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tưc cũng 92% tin có
Thiên Chúa."
Svetlana
Staline, con gái
nhà độc tài đỏ Staline, sinh ra trong vô thần, huấn luyện trong vô thần, đã trở
nên tín hữu Thiên Chúa giáo.
Cac bac học vô
thần đã trở lại Thiên Chúa giáo: Taraschi Nagai, Alexis Carrel, Bregson...
Paul Williams, là giáo sư của đại học University of
Bristol, và là chủ tịch Hội nghiên cứu Phật giáo của Vương quôc Anh “United
Kingdom Association for Buddhist Studies”. Năm 1978, Paul Williams gia nhập
Phật giáo và hăng say truyền bá Phật giáo, nhưng sau khi đọc sach của Thoma
Aquino, một người Công giáo, Paul Williams đã nhận ra niềm tin Phật giáo hoàn
toàn bế tăt, ông viêt: “Nếu Phật giáo là chân thực, thì cuối cùng đối với mỗi
chúng ta, cuộc sống cực khổ hiện tại chỉ là hư không, hoàn toàn vô nghiã, nhưng
nếu đức tin Công giáo là chân thực, thì bấy giờ cuộc sống của mỗi chúng ta có
giá trị vô cùng và hoàn toàn viên mãn.” Lễ Phục Sinh năm
2000, Paul Williams gia nhập Công Giáo.
Ông Lục Trung Tường, nhà ngoại
giao Trung Hoa, từ nhỏ đã là môn sinh của sân Trình cửa Khổng, và chỉ biêt có
đạo ông bà tổ tiên, sau gặp Thiên Chúa giáo như gặp được kho báu, ông đã trở về
với Chúa. Ông nói: "Ơn cứu độ là chổ tập trung tât cả cac nẻo đường, là
chổ độc nhât mà đưc hiếu của loài người, được tiêp vào đưc hiếu thảo siêu nhiên
mà Đưc Giêsu Kitô đã dạy, và đã cho chúng ta hưởng thụ, để kêt hợp tât cả nhân
loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời."
Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim
Sơn, Ninh Bình, Băc Việt. Vì tiêp xuc với tín hữu Thiên Chúa giáo, ông muốn tìm
hiểu đạo lý, đã đọc Phuc Âm, đã nhận ra tính cach siêu việt của Đưc Giêsu Kitô,
Con Trời giáng thế. Ông nói: "Tôi đọc Phuc Âm một cach thành kính. Tôi
nhận thấy Đưc Giêsu Kitô không phải chỉ là nhân vật khac thường, Ngài chính là
Con Thượng Đế, đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình
ra trong Phuc Âm."
Ông Trịnh Sùng Ngô, Giáo sư
triết Đại học Honolulu , nguyên Đại sứ Trung Hoa Dân Quôc tại Vatican . Sau khi
trở lại ông giup nhiều bạn hữu biêt đạo, ông đã đem hêt tâm trí vào việc dịch
Thánh Kinh ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: "Thiên Chúa giáo là đạo bởi Trời.
Người ta lầm cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á
châu, không cũ, không mới. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đưc
Giêsu, và ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Từ nay sự sống và bản thể
tôi được đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa, tôi đã không thiệt
gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện."
Họa sĩ Nhật Foujita, dòng dõi
tướng quân Samourai, đã giup triều đình Mikado, từ thế kỷ thứ 8 đến thếkỷ 12.
Thân sinh ông là sĩ quan câp tướng trong Bộ Tham Mưu Hoàng gia. Sau khi tôt
nghiệp trường mỹ thuật Đông Kinh, Foujita được gửi qua Âu châu, để tiêp xuc với
mỹ thuật Tây phương vào năm 1912. Đến Paris , Foujita được tiêp xuc với cac
danh họa như Picasso, Van Gough, Renoir, Gauguin....được quan sat những tac
phẩm ở cac bảo tàng viện và cac Thánh đường. Oc thẩm mỹ tế nhị làm cho ông
chóng nổi tiếng. Năm 1919, 1920, 1923 ông đã trưng bày nhiều tac phẩm gía trị.
Năm 1924-30 ông chỉ huy trang trí Khu NhậtBản ở CâuLạcBộ ĐồngMinh, được huy
chương của hai nươc Phap và Bỉ. Năm 1931 ông qua Mỹ, năm 1933 qua Roma, về Nhật
năm 1949, ông và cả giađình lãnh PhepThánhTẩy tại nhà thờ Reims. Ông đã mãn
nguyện trở nên con Chúa. Ông nói: "Sự nghiên cứu mỹ thuật Tây phương đã
đưa tôi đến những sáng tac của Thiên Chúa giáo, làm cho tôi bươc vào một thế
giới siêu phàm, ở đấy tôi nhìn thấy Thượng Đế. Những kiến truc vĩ đại, những
kiệt tac về điêu khăc, hội họa của Thiên Chúa giáo làm cho tôi rung động tâm
hồn, khiến tôi say mê tìm hiểu đến thỏa mãn. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Thượng
Đế và nhât quyêt trở về với Ngài."
Ông Mashaba, một học giả
Ấn độ, sinh tại Bihar . Ông được du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành
chánh, ông không nhận một công tac nào trong khối Liên hiệp Anh; sẵn có khuynh
hướng về thần bí học, ông đã sống độc thân để nghiên cứu về cac tôn giáo. Ông
nói: "Sở dĩ mỗi tôn giáo công dụng khac nhau, vì mỗi giáo tổ nhìn thấy một
khía cạnh đau khổ của con người và tìm cach cứu giup theo khía cạnh đó. Bởi thế
có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng
hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giup tu thân cứu đời, công bằng bac ái, nhưng
không tôn giáo nào đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một
cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phuc, và có
nhiều đặc điểm mà cac tôn giáo khac không có, như:
Vị giáo tổ bởi Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trươc từ mấy ngàn năm
trong lịch sử hẳn hòi, khac hẳn với những giáo tổ khac, chỉ là người trần tục.
Có từ Trời xuống lập đạo, thì đạo đó mới có khả năng đưa con người về Trời.
Đạo Trời thì như thuốc trường sinh, dùng thuôc này thì không cần thuôc nào
nữa; vì cac đạo khac chỉ xoa dịu, hay làm quên đau khổ trong thời hạn, còn
ĐạoTrời chẳng những cứu khổ, còn ban cho con người sự sống đời đời, đó mới thật
là ươc vọng cao nhât của mỗi người.
Đưc Giêsu chiến thắng sự chêt, đã sống lại và về Trời, bảo đảm cho cuộc
hành trình và niềm hy vọng vững chăc của người tín hữu.
Vì mang săc thái siêu phàm và chứa đựng những gía trị cao thượng vượt mưc,
nên Đạo Trời thường bị gen tị, hiểu lầm hay lấn ap, thế mà vẫn phat triển điều
hòa, vẫn vững bền giữa mọi gian lao thử thach, khiến cho nhiều người trươc kia
thờ ơ lãnh đạm, hay thù get, phải tìm hiểu và cảm phục, và từ đó trở nên tín
hữu nhiệt thành.
Ông kêt luận bằng một ví dụ: trươc khi mặt trời mọc, người ta đã thấy ánh
sáng của Đạo Trời chiếu vào nhân loại, trươc khi chính Con Trời giáng thế làm
sáng tỏ hẳn Đạo Trời. Nay ngày của cuộc đời đã đến luc chính ngọ, thì không ai
mà không được ánh sáng của Đạo Trời soi tới.
J.J Rousseau có ý mỉa mai
những ai cho rằng câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu là bịa đặt, như sau:
"Bịa đặt như thế thì không được; đến nổi tac gỉa bịa đặt, (nếu có) chăc
chắn còn lạ lùng hơn anh hùng trong cuốn sach."
Tổng Thống George Washington: "Không
thể có một chính phủ đúng, khi chính phủ đó phủ nhận Thượng đế và Kinh
thánh."
Tổng Thống Abraham Lincoln: "Kinh
Thánh là qùa tặng qúy nhât mà Thượng Đế đã ban cho nhân loại."
Tổng Thống Dwight Eisenhower: "Văn
minh của chúng ta được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh."
Tỗng Thống Andrew Jackson: "Kinh
Thánh phải là nền tảng cho thể chế của chúng ta."
Một bác học người Mỹ, có ý mỉa mai và
đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:
Trong con người có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.
Máu chứa chất săt, đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.
Có một số chất vôi đủ quet một bức tường nhỏ.
Đôt ra than, có thể làm được 65 cây viêt chì.
Chât phôt phat đủ làm được hộp diêm.
Và chât muối, hai muỗng nhỏ.
Bán những thứ đó được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.
Cái chêt của
Voltaire: Voltaire
là kẻ vô thần. Ông cố hạ bệ Thiên Chúa và đánh phá Giáo hội Công giáo. Không
một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm, lấy tên
là “Beelzebuth”. Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: "20 năm nữa Thiên Chúa
về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài." Đúng 20 năm sau, năm 1773, Voltaire
tăt thở trong cái chêt thê thảm. Ông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông la
lên: "Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa...Đây qủy muốn băt
tôi...Tôi trông thấy hỏa ngục." Ông tru tréo gầm thet như thú vật hung dữ.
Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa thuòng giup người
hâp hối, sau khi chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói: "Khi ấy tôi ở gần
giường của Voltaire đang hâp hối, tôi không còn muốn thấy một người vô đạo chêt
nữa." Một người khac cũng chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói: "Nếu
qủy có thể chêt được, cũng không chêt dữ như Voltaire."
Hỏa ngục. Năm 1917, Đức Mẹ Maria hiện ra với
ba trẻ tại Fatima , nước Bồ Đào Nha, đã cho cac em thấy hỏa ngục và các em mô
tả lại như sau: "Đức Mẹ cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như
ở dưới mặt đât. Chìm ngập trong lửa này là qủy dữ và cac linh hồn dưới hình thể
con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ
nổi lên trong đám cháy, bị cac ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phat
ra từ thân hình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rơt xuống mọi phía, giống
như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mât thăng bằng,
và giữa những tiếng la het và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiêp
chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Cac qủy dữ có thể phân biệt do
cac hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiêp và
chưa bao giờ thấy, tât cả đều đen đủi và trong suôt. Thị kiến này kéo dài một
luc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biêt ơn cho xứng với Mẹ yêu dấu trên
trời của chúng con, Đấng đã báo trươc cho chúng con trong lần hiện ra thứ nhât,
khi hứa rằng Ngài sẽ đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con
sẽ chêt điếng vì sợ hãi và kinh khiêp"
Hy vọng mấy trang sưu tầm này, không vô ich cho những ai khao khát chân lý.
NguyễnHyVọng
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire