lundi 3 décembre 2018








CHÚA THÁNH LINH LÀ AI ?


Lúc đó tôi lên 12 tuổi, chị tôi 17 tuổi đi tu Dòng Sœurs De La Charité ở Paris.  Ba mạ tôi làm một buổi tiệc đải đằng bà con bạn bè.  Rồi sau đó có hai bà Xơ dòng Bác Ái nguời Pháp từ Lào về dẩn chị tôi đi.

Chị tôi đi rồi, tôi thấy trên nóc tủ cao có một hộp đen láng mà tôi biết là tài sản gì đó của chị tôi rất bí mật. Hộp dài chừng 40cm, cao 20cm, ngang chừng 50cm mà chị không đem theo. Tuy không biết trong hộp chứa đựng gì, nhưng tôi rất vui mừng vì nghĩ rằng từ đây chiếc hộp đó thuộc quyền sở hữu của tôi.

Tôi bèn bắc ghế trèo lên lấy xuống mở ra : Trong hộp chứa toàn sách là sách, những quyễn sách nhỏ dày mỏng bao bằng giấy láng đen.  Tôi mừng rở lấy ra đọc hết.  Sách gồm những sách gương phước rất hay, gương tội nhân đọc nghe rùng rợn, và đặc biệt có một quyển sách nói về Chúa Thánh Thần, có tuần Cửu Nhật Chúa Thánh Thần.  Tôi biết Chúa Thánh Thần và say mê Người từ đó. Và tôi đã chứng kiến Chúa Thánh Thần đã làm nhiều phép lạ cả thể cho tôi.  

Đến năm tôi lên 14 tuổi (lúc đó chưa có sách Lễ Mi Sa bằng tiếng Việt), tôi thấy các LM và vài người người lớn khác cầm quyển sách Missel, đọc theo trong trong từng ngày Lễ Chúa Nhật, coi thiêng liêng và oai ghê. Tôi khao khát có 1 quyển như vậy, bèn dành tiền mua cho bằng được dầu là tiếng Pháp mà tôi chưa hiểu nhiều Pháp ngữ. Tôi đọc sách trong các buổi lễ và đặc biệt là vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm đó.

Tôi giật mình say sưa đọc kinh ‘Venez Esprit-Saint…’. Và đọc mãi mổi tuần cho đến thuộc lòng như kinh Kính Mừng.  Và bắt đầu từ đó đến nay cứ mổi Chúa Nhật tôi đọc Kinh Chúa Thánh Thần một hay nhiều lần.  Vào thời gian ấy ít nghe giảng về Chúa Thánh thần, cũng không hề nghe ai nhắc nhở.  Tôi đem Chúa Thánh Thần nói cho Mạ tôi nghe, ba mạ tôi vốn là đạo theo.  Mạ tôi nói rằng mạ tôi chưa hề biết đến Chúa Thánh Thần và hứa tù nay sẽ cầu nguyện với Ngài.  

Và cũng từ đây, gặp dịp là tôi tuyên truyền về Chúa Thánh Thần, ngay cả đối với các Linh mục hay Nữ tu.  Tôi nói rằng Chúa Thánh Thần có một Chức Năng Đặc Biệt thôi là Ban Ơn, là Đấng Ban Ơn Phước, chứ Chúa Thánh Thần không phạt ai cả. C’est le Donneur, Người Cho, Người Tặng, Người Ban Ân Phước thôi.  Vậy ai cần gì cứ kêu gọi Chúa Thánh Thần SOS! SOS! tức thì được ngay, như tôi!

Sau nầy GH đổi lại gọi là Chúa Thánh Linh. Xin mở dấu đơn để tôi kể câu chuyện sau đây:

Mổi lần tôi gặp một linh mục trẻ, đẹp trai, giảng hay, rất hùng hồn, rất thuyết phục, tôi liền xin gặp nói chuyện ngay sau lễ.  Tôi thưa với linh mục là ngài đẹp trai, có duyên, giảng rất hay và rất thuyết phục, hấp dẩn.  Và tự nhiên như vậy ngài là người rất tình cảm.  Vậy thì những cô gái tình cảm nhẹ dạ rất dễ bị chinh phục bởi ngài.  Và ma quỉ sẽ xúi họ quay lại cám dổ ngài, ma quỉ lại ra sức giúp họ thành công. Tôi thưa với Linh mục, nếu cha không bị cám dỗ và không chiến thắng cám dỗ thì cha không nên thánh, mà có thể thành quỉ.  

Vậy thì nếu trong quá khứ cha chưa bị cám dổ và sa ngã, thì hiện tại có thể cha đang bị cám dổ và sa ngã.  Và nếu trong hiện tại cha chưa bị cám dổ và sa ngã, thì trong tương lai chắc chắn cha sẽ bị.  LM gật đầu tỏ vẻ đồng ý với tôi.  Tôi nói tiếp, cha biết làm sao để tránh mọi cám dổ dự dội không cha ?  Có LM thì lôi trong túi ra tràng hạt Mân Côi, có LM thì hỏi tôi “ Phải làm sao?!”.  “Có một Vị Đặc biệt mà chúng ta phải kêu cứu”, “Ai?!”, “Kêu cứu Chúa Thánh Linh, van nài Ngài hết lòng, Ngài đến ngay lập tức, lập tức, chắc chắn như vậy!”. LM trã lời tôi sẽ làm như chị nói. Xin đóng dấu đơn ở đây.     

Đến khi lên Đại học tôi mua cho tôi 1 quyễn Thánh Kinh đẹp, cở vừa và say sưa đọc. Chúa đã cho tôi tìm ra nhiều điều mới trong Thánh Kinh mà tôi chưa bao giờ nghe các LM giãng ở nhà thờ hay nghe ai nói đến. Điều đặc biệt là tôi nghiên cứu ra, hay nôm na là tìm ra Đức Chúa thánh Thần là ai. Thât như vậy, và chắc chăn là đúng. Tôi dạy cho con tôi. Tôi đã đem ý kiến nầy nói với nhiều LM, có người đồng ý có người lơ là, không ý kiến. Vậy nay tôi xin viết lên đây ý tưỡng của tôi về Chúa Thánh Linh là ai, gởi đến anh chị em CG để suy gẩm, đồng thời tôi cũng xin được biết ý kiến của quý anh chị em trong Chúa.

Khi tôi đọc Phúc Âm thánh Marco đến đoạn Chúa Giêsu bị bọn ký lục vu cáo là thông đồng với ma quỉ mà trừ quỉ: “Ông ấy có Bên-Dê-Bút, ông ta nhờ đầu mục của quỉ mà trừ quỉ.” Chúa trả lời “ (Phần 1) Làm sao Satan lại đi trừ Satan? Nước nào chia phe chống lại nhau thì không thể tồn tại được. Và nhà nào chia phe chống lại nhau thì nhà ấy không vững được. Vì nếu Satan dấy lên chống lại mình và chia bè, thì nó không vững được, mà đã tận số. Không ai vào nhà người mạnh mà lấy của cải của người đó được, phải trói người mạnh đó trước đã mới lấy của cải của nó được.
(Phần 2) Quả thật ta nói với các ngươi: mọi tội lỗi, mọi lộng ngôn sẽ được tha thứ cho loài người. nhưng ai xúc phạm đến Thánh Thần thì đời đời không được tha thứ; nó đã mắc tôi bất diệt.” (Mc 22-29).

Vào thời gian đó, ngay các thánh tông đồ cũng nào có hiểu Chúa Thánh Thần là ai. Mà Chúa Giêsu cũng chưa ban ơn Chúa Thánh Thần hay giãng dạy về Chúa Thánh Thần cho họ. Cho nên họ nghe câu nói của Chúa về việc xúc phạm đến Thánh Thần thì ngớ ra, chỉ sau nầy khi họ đã đầy ơn Chúa Thánh Thần rồi họ mới hiểu về Người. Chính Thánh Marco, hay vị nào viết đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu, cũng chưa hiểu hết lời Chúa trong đoạn nầy, nên đã cắt riêng câu nói của Chúa Giêsu ra 2 phần (Phần 1, Phần 2).

Khi bọn ký lục nói là Chúa nhờ quỉ mà trừ quỉ, tức thị chúng muốn ám chỉ Chúa là người của quỉ, nhờ quỉ hay chính xác hơn chúng muốn nói là linh hồn Chúa thuộc về quỉ, hay linh hồn Chúa chính là quỉ. Tội phạm thượng ấy quá sức nặng nề, tuyệt đối Chúa không tha thứ, tức là Chúa không tha thứ xúc phạm đến Thánh Linh Thiên Chúa tức là xúc phạm đến Linh Hồn cực Thánh của Chúa Giêsu.

Chính vì vậy sau khi giải thích dài dòng rằng quỉ không bao giờ chống lại nhau khi chúng cùng hoạt động hại người giống nhau, Chúa Giêsu lên án lời thống mạ của bọn ký lục một cách nặng nề nhất vì chúng đã xúc pạm chính Linh Hồn Chúa Giêsu. Và lần đầu tiên chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến Chúa Thánh Thần. Vậy theo tôi suy gẩm Chúa Thánh Thần đích thị là Linh Hồn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chỉ khác Chúa Thánh Thần là người mặc xác loài người mà thôi. Linh hồn Chúa Giêsu tức là Chúa Thánh Thần. Vì thế Chúa Giêsu chỉ gởi Chúa Thánh Thần khi người đã về Thiên đàng.

Vậy Chúa Thánh Thần đích thị là Linh Hồn Chúa Giêsu thoát ra ngoài Thân Xác Con Người của Chúa Giêsu. Như vậy Ngôi Hai và Ngôi Ba là Một. Cũng từ điểm nầy chúng ta có thể suy diễn đến Ba Ngôi Thiên Chúa là Một dễ dàng. Chúa Giêsu sau khi về Trời, ngài chẵng muốn rời hẳn chúng ta, dầu ngài đã thương xót chúng ta Người đã làm Phép Thánh Thể để lại thân xác để nuôi chúng ta. Vì ngài đã sinh chúng ta ra trong một thân xác hèn yếu, mà thân xác đó phải trách nhiệm về linh hồn mình. Ngài không sinh chúng ta ra như các thiên thần, vì vậy để cứu giúp sự yếu hèn của chúng ta tận tình, vì thương yêu chúng ta quá đổi, Ngài gởi luôn linh hồn Ngài xuống (nhờ Phép Thêm Sức) cho chúng ta để chính Chúa Giêsu sống vừa hồn vừa xác trong chính con người của chúng ta.

Sau đây xin dịch tặng ra văn vần kinh cầu Thánh Linh Thiên Chúa:

KINH CẦU THÁN LINH

Ơi hởi! Thánh Linh từ trời,
Xin hãy đến, hãy chiếu dọi Ánh Sáng của Người.
Hởi người Cha của kẻ bần khổ khắp nơi,
Hãy đến! Hởi Mạch Suối càn khôn muôn đời,
Hãy đến! Hởi Ánh Sáng Tình Yêu chói lọi,
Hãy đến! Hởi Nguồn An Ủi từ trời,
Hãy đến! Hởi Mái Ấm Tâm Hồn thiêng liêng,
Hãy đến! Nơi nương tựa êm dịu triền miên!
Hãy đến! Hãy vổ về  bao nổi khốn cùng,
Hãy làm dịu cơn sốt chập chùng,
Hãy lau khô nước mắt chan hòa.
Ơi hởi nguồn Ánh sáng tuyệt vời cao xa,
Hãy tưới tràn ngập tận cùng trái tim
Những trái tim yêu Ngài hết tình.
Ôi! Vắng Ngài, con người lăn cả vào bùn nhơ,
Nào ai còn trong sạch ngây thơ!
Xin hãy tẩy sạch mọi vết dơ,
Và tưới mát tâm hồn khô cạn,
Cùng chữa trị bao vết đau khổ lầm than.
Xin hãy làm dịu êm lòng cứng cỏi ương hèn,
Hãy thổi nóng lên tâm hồn lạnh lẽo tối đen,
Hãy sửa lại bước chân ngất ngư xiêu vẹo khắp nơi,
Hãy ban cho những ai yêu mến và tin cậy Người
Bảy Ơn Thiêng thánh thiện,
Hãy ban cho chúng con xứng đáng được tận hiến
Vào bước đường sống hạnh phúc trường niên.
Amen.

Gs.Bs. Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh
Chúa Nhật Lễ Lá 2006

mercredi 8 juin 2016

CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA







CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA


Tôi xin kể một câu chuyện trẻ con. Vào năm 1973 tại Sài Gòn, một hôm tôi thấy thằng con trai 4 tuổi của tôi nằm vách mảy cười lớn tiếng một mình. Tôi hỏi nó có gì vui mà con cười. Nó trả lời “Con nghĩ cái gì cũng có nguyên do của nó”. “Căn cứ vào đâu mà con nói cái gì cũng có nguyên do của nó hả?”. Nó suy nghĩ rồi trả lời “Con nằm ngủ giữa trời trên lầu thượng, chiêm bao thấy con múc nước dội vào tường, nước dội ra ướt mặt con, tỉnh dậy thì hóa ra trời mưa. Vậy là nguyên do mưa rơi trên mặt con làm cho con chiêm bao thấy dội nước ướt mặt, và còn nhiều chuyện nữa

Theo tin tức của VietCatholic thì ngày 27/3/2001 ĐTC Gioan Phaolô II đã nói “Ngày nay không còn là thời kỳ sợ sệt, mà phải lăn mình vào những công tác tông đồ táo bạo.” Vì thế tôi không ngại nói lên những sự thật hữu ích. Tại sao ĐTC đã nói câu nói ấy. Vì như vậy rõ rang từ giờ phút ĐTC Gioan Phaolo II nói câu ấy trở về trước, người Kitô-hữu đã sống trong sợ sệt, hoàn toàn không có tự do, không có tiếng nói. 

Mấy chục năm nay Giáo hội Công Giáo La Mã kêu gọi con trai đi tu làm linh mục. Rồi lại đặt kinh cầu “Có ơn Thiên triệu con trai đi tu làm linh mục”. Như vậy đã qua bao nhiêu thời gian mà số linh mục càng ngày càng thiếu. Tại Québec Canada, cứ vài chúa nhật thì tôi lại dự một Thánh lễ không có linh mục chủ tế. Các bà lớn tuồi (đã qua các lớp thần học) đứng lên tổ chức ‘Lễ nói’. Tôi dùng chữ ‘Lễ nói’ vì vào năm 1986 tôi ra Huế lên thăm dòng Phú Xuân và đặc biệt thăm bà Bề Trên là một bạn học củ của tôi. Bà cho tôi biết trong dòng có hai chị đậu bác sĩ y khoa, và cả hai đã đi làm ‘Lễ Nói’ tại nhiều nhà thờ. Đó là chuyện xứ XHCNVN vào cái thời mà một số đông linh mục ‘bỏ bổn đạo đi tìm tự do’.

Các xứ không CS, tự do tôn giáo 100% tại sao phải thiếu linh mục thái quá như vậy?, Đạo CG suy sụp. Xứ CS thì trái lại, rất nhiều ơn gọi. Phải thành thật nói rằng, ơn Chúa gọi đến nhiều cách.



Đúng là cái gì cũng có nguyên nhân của nó. Vậy chúng ta thữ tìm nguyên nhân tại đâu thì mới hầu chữa trị được cái bệnh “thiếu ơn gọi làm linh mục”, nhiều người thường bỏ Thánh Lễ Chúa Nhật trong các nước Âu Mỹ tuy vẩn có đức tin.

VietCatholic đã đưa ra một bức thư mẩu để các linh mục gởi cho học sinh kêu gọi chúng lựa chọn chức vụ linh mục. Đó có phải là phương pháp hữu hiệu cho ngày nay không?

Chúng ta thử tìm hiểu tại sao thiếu ơn gọi thiên triệu : Hàng giáo phẩm công giáo NAM giữ ngôi vị độc quyền điều khiển Giáo hội CG suốt trên 2000 năm nay. Đặc biệt là hàng ngủ linh mục là những người có bổn phận đi sâu đi sát đi sống đi chết với giáo dân. Thứ bậc những người thứ hai có bổn phận tiếp tay cùng linh mục đem đức Tin đến cho bổn đạo và các từng lớp hậu duệ của họ là hàng ngủ cha mẹ trong gia đình công giáo.

Nhưng hai tầng lớp người của bổn phận Tông đồ cao cả trên có làm tròn bổn phận giũ vững và phát triển Đức Tin của người Kitô hữu ở mọi lứa tuồi không? Xin thưa rằng là rất hiếm.

Chỉ xin nói trong vòng mấy chục năm nay, đi dự thánh Lẽ tôi luôn nghe giãng dạy về Đức Yêu người. Chứ không hề nghe giãng dạy về vấn đề củng cố, phát triển và trau dồi Đức Tin, Đức Cậy. Cha mẹ Việt nam giỏi lắm thì khi con còn nhỏ thì đem đi xem lễ hay tập đọc kinh chung ở nhà. Trẻ con lớn lên có Đức Tin hay không thì là vấn đề ơn Chúa.

Chúng ta vốn biết, khi một người phạm tôi trọng mất tình nghĩa với Chúa thì không còn ơn Chúa để giữ vững Đức Tin. Đối với người lớn Đức Tin thấm sâu còn cơ cứu vản, đối với trẻ nhỏ, vị thành niên và thanh niên, Đức Tin còn yếu kém, nếu sa vào trọng tội thì Đức Tin sẽ mọc cánh bay nhanh. Thánh Âu-Gút-Tinh nói rằng “Lòng trong sạch là nguồn của mọi ân phước.”

Ngày nay học đường dạy sex cho học sinh ngay từ tiểu học. Trẻ con là giống hay bắt chước, đã học tức thị chúng muốn thực hành ngay, nhất là lúc nam nữ cùng học chung trường tiểu học thì chúng càng dễ thực hành. Dược sĩ Lê Đình Ngân ở đường Sait-michel nói với tôi “Con bé 10 tuổi đem toa đến mua thuốc ngừa thai, tôi la nó “Trẻ con mua thuốc nầy làm gì?” 15 phút sau mẹ nó đến buộc tôi phải bán. Dược Bảo đau khổ nói với tôi “Chị ơi, ngày trước ra chơi, trẻ em đua nhau đi mua kẹo, nay chúng đua nhau đi mua ‘bọc cao su.’ Các bé trai gái từ tiểu học đã tự do làm chuyện dâm dục. Một bà mẹ trẻ kể với tôi rằng “Tôi đang nấu ăn thì thằng con trai 6 tuổi của tôi dắt em gái nhỏ 4 tuổi đi chơi. Tôi hỏi các con đi chơi gì ở đâu. Thằng bé trai trã lời rằng đi chơ sex trong buồng tắm”.  Một cô giáo dạy sex ở trường tiểu học kể với tôi “Trong giờ học sex một bé trai 11 tuổi hỏi tôi: Thưa cô, em lảm sex mà không thấy sướng chi cả, thì phải làm sao cho sướng !”.

Ngành giáo dục buộc các dược sĩ phải bán thuốc ngừa thai cho trẻ em có kinh. Trong xã hội lại thêm sách báo phim ảnh, nay còn có Intenet mời mọc, trưng bày hàng ngàn hành dộng dâm ô khiêu khích trẻ nít và thanh niên sống trụy lạc…. khuyến khích trẻ em tự hảm hiếp nhau. Rồi lớn lên tương lai chúng như thế nào. Ngòai việc lây la truyền bệnh HIV/SIDA/AIDS, chúng không biết đến tình yêu hạnh phúc chân thật là gì mà sinh ra hành động bạo lực, xì ke ma túy mãi dâm tử tập thể vv…  

Mấy chục năm nay, Giáo hội không hề đá động đến việc đập đổ việc dạy luân lý ở tiểu và trung học, cũng không có tiếng nói tích cực trong giáo lý công giáo. Tại nhà thờ trên tòa giãng thì các linh mục nói đến Đức Bác ái, chứ không nhấn mạnh đến dức Tin và tôi dâm dục. Đã vậy họ lại làm quá nhiều gương xấu rủng rợn, bí mật có nhân tình, hảm hiếp trẻ em nam nữ, nữ tu sĩ rồi buộc phá thai...

Những sự việc đó xẩy ra trong bóng tối thì ai có thể nói là thiểu số hay không. ĐTC Gioan Phaolô đã nhắc nhở đi tu làm linh mục là tân hiến, là phải tự kiềm hảm xác thịt, là tử đạo. Nhưng gương xấu phơi bày, người giáo dân cứ nghĩ là nói ra tức là nói xấu hàng mục tử, là phá đạo, tuy ai cũng hiểu “thuốc đắng đã tật”.

Vậy nếu cứ cầm tờ giấy đọc kinh xin Chúa cho có nhiều ơn thiên triệu, viết nhiều thư kêu gọi học sinh đi tu khác nào viết ngân phiếu không tiền bào chứng. Như một vị Hồng y đã nói với Giáo Hoàng “Phải cải tổ đạo Chúa mà bắt đầu từ cấp cao thì chúng ta mới no đầy...”. Vì hàng giáo phẩm chúng ta cần phẩm hơn là lượng.

Trên thế giới ngày nay, các quốc gia đều biết phải lo no ấm, lo bảo trợ nạn nhân chiến tranh, lo canh phòng giúp đở thiên tai, động đất bảo lụt sống thần vv…. Nhưng tai nạn tinh thần của con người nhất là tai nạn luân thường đạo lý của ấu thơ, tuổi vị thành niên …. là công việc của thầy thuốc tâm hồn, công việc của Giáo hội Công giáo thì sao ?!!!

Nếu GHCG chúng ta không đem Tin Mừng đến cho nhân loại dưới hình thức những gương lành thánh qua các linh mục, tu sĩ, giáo dân, dưới hình thức tẩy chay cuộc sống dâm ô của tuổi trẻ trong cái lý thuyết hiện sinh thì chúng ta làm Chúa Gie6su cực lòng biêt bao !  Với lý thuyết hiện sinh tự do sex, sex từ tuổi ấu thơ, coi thường đức trinh tiết, mĩa mai thân xác trong sạch thì đi cầu nguyện xin ơn Thiên triệu ở dâu. Phải chăng đó là làm một việc nghịch lý, để tạo ra các LM hư hỏng sao ?!!!

BS. Nguyễn Thị Thanh
Chủ tịch Ban Chấp hành
Hội Bảo Vệ Trẻ Em Nạn Nhân Ấu Dâm
dr.thanh2000@gmail.com









Chính Thống Giáo Đông Phương






 
Chính Thng Giáo Đông Phương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chính Thống giáo Đông phương là nhánh Kitô giáo lớn thứ nhì trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo Rôma. Đây là nhóm các giáo hội Kitô giáo đại diện cho truyền thống Kitô giáo Đông phương. Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về Kitô giáo sơ khai và tuyên bố họ mới là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do Chúa Kitô thiết lập, xem chính mình là Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.
Trong thiên niên kỉ đầu của Kitô giáo, Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma cùng là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phương và tây phương. Vào thế kỷ 11, các khác biệt này dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054, phân chia thành Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma.
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/ab/The_Descent_Of_The_Holy_Spirit.png/250px-The_Descent_Of_The_Holy_Spirit.png
Các tông đồ và bà Maria trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Tín hữu Chính Thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Anrê.
Tín hữu Chính Thống giáo xem giáo hội của họ là:
·         Hội thánh nguyên thủy được thiết lập bởiChúa Giê-su Ki-tô và các sứ đồ.
·         Giáo huấn và truyền thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy.
·         Tân Ước viết cho tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai và trình bày các giáo lý đã có sẵn của hội thánh (ngụ ý Giáo hội là nền tảng của Tân Ước).
Giáo hội thiết lập và bảo tồn lịch Kitô giáo nguyên thủy (dựa trên lịch Julius), xác lập những ngày lễ kỷ niệm các sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Giê-su.
Theo dòng lịch sử, các Giáo hội Chính Thống giáo chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp với các thành phố như AlexandriaAntiochia, và Constantinopolis (nay là Istanbul); trong khi đó Giáo hội Công giáo gắn liền với văn hóa Latinh với trung tâm là Roma. Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai phần: phương Đông và phương Tây.
Mục lục
  [ẩn
·         1 Cấu trúc
·         2 Giáo lý
o    2.1Ba Ngôi
·         3 Truyền thống
·         4 Huyền nhiệm
·         5 Chức sắc
·         6 Lịch sử
·         7 Giáo hội ngày nay
·         8 Chú thích
·         9 Tham khảo
·         10 Liên kết ngoài
Cu trúc
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/1d/Reader_ordination.jpg/300px-Reader_ordination.jpg
Nghi thức trao chức đọc sách tại một chủng viện Chính thống giáo Nga.
Chính Thống giáo xem Chúa Giê-su là đầu của hội thánh và hội thánh là thân thể của ngài. Người ta tin rằng thẩm quyền và ân điển của Thiên Chúa được truyền trực tiếp xuống các Giám mục và chức sắc giáo hội qua việc đặt tay – một nghi thức được khởi xướng bởi các sứ đồ, và sự nối tiếp lịch sử liên tục này là yếu tố căn bản của giáo hội (Công vụ 8:17; 1Tim 4:14; Heb 6:2). Mỗi Giám mục cai quản giáo phận của mình. Nhiệm vụ chính của Giám mục là gìn giữ các truyền thống và quy tắc của giáo hội khỏi bị vi phạm. Các Giám mục có thẩm quyền ngang nhau và không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về mặt hành chính, các Giám mục và các giáo phận được tổ chức thành các nhóm tự quản, trong đó các Giám mục họp ít nhất hai lần mỗi năm để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến giáo phận của họ. Khi xuất hiện các học thuyết dị giáo, một "đại" công đồng được triệu tập qui tụ tất cả Giám mục. Giáo hội xem bảy công đồng đầu tiên (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8) là quan trọng nhất mặc dù các hội nghị khác cũng góp phần định hình quan điểm của Chính Thống giáo. Những công đồng này không thiết lập giáo lý cho hội thánh nhưng chỉ so sánh các học thuyết mới với các xác tín truyền thống của giáo hội. Học thuyết nào không phù hợp với truyền thống giáo hội bị xem là dị giáo và bị loại trừ khỏi giáo hội. Các công đồng được tổ chức theo thể thức dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi Giám mục một lá phiếu. Dù được phép dự họp và phát biểu tại công đồng, quan lại triều đình Rôma hay Byzantine, tu viện trưởng, linh mục, tu sĩ hoặc tín đồ không có quyền bầu phiếu. Trước cuộc Đại Ly giáo năm 1054, Giám mục thủ đô La Mã, tức Giáo hoàng, dù không có mặt tại tất cả công đồng, vẫn được xem là chủ tọa công đồng và được gọi là "Người đứng đầu giữa những người bình đẳng". Một trong những nghị quyết của công đồng thứ nhì, được khẳng định bởi các công đồng sau, là Giám mục thành Constantinople (Constantinople được xem là Rôma mới) được dành vị trí thứ hai. Sau khi tách khỏi Rôma, vị trí chủ tọa công đồng được dành cho Thượng phụ thành Constantinopolis với danh hiệu "Người đứng đầu giữa những người bình đẳng", thể hiện sự bình đẳng của chức vụ này trong phương diện hành chính và tâm linh. Người đảm nhiệm chức vụ này không được xem là đầu của hội thánh hoặc giáo chủ.
Theo các ước tính, số tín hữu Chính Thống giáo là từ 150-350 triệu người[1]. Chính Thống Đông phương cũng là tôn giáo phổ biến nhất ở Belarus (89%), Bulgaria (86%), Cộng hòa Cyprus (88%), Gruzia (89%), Hy Lạp (98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro(84%), România (89%), Nga(76%)[2]Serbia (88%), và Ukraina (83%)[3]. Tại Bosnia và Herzegovina, tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là 48%, tại Estonia là 13% và 18% ở Latvia. Thêm vào đó là các cộng đồng Chính Thống giáo ở châu Phichâu ÁÚcBắc Mỹ và Nam Mỹ.
Giáo lý
Một phần trong loạt bài về
Description: Tranh kính miêu tả Chúa Giêsu, vị Mục tử Nhân lành
·         Giê-su
·         Ki-tô
·         Chúa Giêsu trong Kitô giáo
·         Giáng sinh
·         Sứ vụ
·         Khổ hình
·         Phục sinh
·         Kinh Thánh
·         Nền tảng
·         Cựu Ước
·         Tân Ước
·         Phúc Âm
·         Quy điển
·         Thư mục
·         Giáo hội
·         Bản tín điều
·         Giao ước mới
·         Thiên Chúa
·         Ba Ngôi 
o    Cha
o    Con
o    Thánh Linh
·         Biện giáo
·         Công giáo
·         Cứu rỗi
·         Kitô học
·         Lịch sử thần học
·         Thanh tẩy
·         Truyền giáo
·         Lịch sử
·         Truyền thống
·         Maria
·         Sứ đồ
·         Phêrô
·         Phaolô
·         Giáo phụ
·         Kitô giáo sơ khởi
·         Constantinus
·         Công đồng đại kết
·         Augustinus
·         Ly giáo Đông–Tây
·         Thập tự chinh
·         Tôma Aquinô
·         Cải cách Tin Lành
·         Luther
Liên quan[ẩn]
·         Âm nhạc
·         Bài thuyết giảng
·         Biểu trưng
·         Cầu nguyện
·         Chỉ trích
·         Đại kết
·         Liên tôn
·         Năm phụng vụ
·         Nghệ thuật
·         Phụng vụ
·         Vai trò văn minh
·         Hệ phái
·         Nhóm
·         Công giáo Rôma
·         Anh giáo
·         Tin Lành
·         Lutheran
·         Calvinist
·         Anabaptist
·         Baptist
·         Phúc âm
·         Giám lý
·         Thánh khiết
·         Phục lâm
·         Ngũ tuần
·         Chính thống giáo Đông phương
·         Cảnh giáo
·         Công giáo Đông phương
·         x
·         t
·         s

Ba Ngôi
Tín hữu Chính Thống giáo tin một Thiên Chúa duy nhất, hiện hữu trong Ba Ngôi vị (Hypostases) là Cha và Con và Thánh Linh. Chúa Cha tự hữu, Chúa Con sinh bởi Chúa Cha và Chúa Thánh Linh nhiệm xuất từ Chúa Cha. Thiên Chúa là Ba Ngôi hiệp nhất trong một Bản thể (Ousia), không lẫn giữa các ngôi với nhau, cũng không phân chia bản thể – Thiên Chúa duy nhất là Đấng tự hữu, hằng hữu, vĩnh cửu, và phi vật chất.[4] Xác tín này được trình bày trong bản Tín điều Nicaea.[5]
Tội lỗi và sự Cứu rỗi
Bản chất của con người, trước khi sa ngã, là tinh tuyền và vô tội. Nhưng hành động bất tuân Thiên Chúa của Adam và Eva trongVườn Eden đã để tội lỗi và sự bại hoại thâm nhập vào bản chất tinh tuyền ấy. Tình trạng bất khiết này đã ngăn cản con người hưởngVương quốc Thiên đàng. Song, khi Thiên Chúa hóa thân thành người trên dương thế, ngài đã thay đổi bản chất ấy bằng cách hiệp nhất con người với Thiên Chúa; do đó, Chúa Kitô thường được gọi là "Adam mới". Bằng cách trở thành người, chết trên cây thập tự, và sống lại, ngài đã thánh hóa các phương tiện ân điển, nhờ đó chúng ta được trở lại với tình trạng tinh tuyền nguyên thủy và phục hòa vớiThiên Chúa. Điều này Chính Thống giáo gọi là được cứu khỏi tình trạng bệnh tật của tội lỗi. Quyền năng của sự cứu rỗi giải thoát mọi người công chính khỏi quyền lực trói buộc của tội lỗi, kể từ buổi sáng thế, trong đó có cả Adam và Eva.
Phục sinh[sửa | sửa mã nguồn]
Sự Phục sinh của Chúa Giê-su là sự kiện quan trọng nhất mà lịch phụng vụ Chính Thống giáo đặt làm trọng tâm. Thống giáo tin đây là một sự kiện lịch sử và Chúa Giê-su thật sự sống lại trong thân xác. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, bị đóng đinh, sau khi chết, đến ngày thứ ba Ngài sống lại để cứu rỗi nhân loại. Ngài đã giải thoát loài người khỏi quyền lực của hỏa ngục. Như thế, mọi kẻ tin Ngài đều có thể thông phần vào sự sống vĩnh hằng.
Thánh Kinh và Thánh Truyền[sửa | sửa mã nguồn]
Chính Thống giáo xem mình là sự nối tiếp lịch sử từ hội thánh tiên khởi được thành lập bởi Chúa Giê-su và các sứ đồ.[6] Đức tin được truyền dạy bởi Chúa Giê-su và các sứ đồ mặc lấy sức sống bởi Chúa Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, được gọi là Thánh Truyền (Truyền thống thánh).[7] Lời chứng chủ yếu và có thẩm quyền cho Thánh Truyền là Kinh Thánh, được viết ra và được chuẩn thuận bởi các sứ đồ để ký thuật chân lý được mặc khải và lịch sử tiên khởi của hội thánh. Bởi vì Thánh Kinh được linh hứng, nên được xem là trọng tâm của sự sống hội thánh.
Theo quan điểm Chính Thống giáo, Thánh Kinh luôn được giải thích trong nội hàm của Thánh Truyền. Thánh Truyền đã hình thành và quy điển Thánh Kinh. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Thánh Kinh không độc lập với giáo hội, do dó, cách duy nhất để hiểu Thánh Kinh là giải thích Thánh Kinh trong nội dung truyền thống giáo hội.[8]
Thánh Truyền còn bao gồm lễ nghi, ảnh thánh, phán quyết của các công đồng và giáo huấn của các Giáo phụ. Từ sự đồng thuận của các Giáo phụ (consensus patrum) mà người ta có thể hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về đời sống của giáo hội. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng quan điểm của từng giáo phụ riêng lẻ không được xem là vô ngộ (không sai lầm), nhưng sự đồng thuận của các giáo phụ sẽ giúp mang đến một sự hiểu biết chân xác về Thánh Kinh và các giáo thuyết, nhờ sự hướng dẫn của Chúa.[9]
Theotokos và các Thánh[sửa | sửa mã nguồn]
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0a/Vladimirskaya.jpg/180px-Vladimirskaya.jpg
Đức Mẹ Vladimir, một trong những bức ikon được tôn kính nhất của Nga.
Chính Thống giáo tin rằng sự chết và sự tách rời linh hồn khỏi thể xác vốn là điều không bình thường, là hậu quả của tình trạng sa ngã của loài người. Họ cũng tin rằng hội thánh bao gồm người sống và người đã khuất. Mọi người đang sống trên thiên đàng đều là thánh, dù tên tuổi của họ có được biết đến hay không. Tuy nhiên, có những vị thánh đặc biệt mà Chúa muốn chúng ta biết để noi theo. Khi một vị thánh được đa số trong giáo hội thừa nhận, một buổi lễ vinh danh được cử hành cho vị thánh này. Điều này không có nghĩa là phong thánh cho vị ấy, nhưng chỉ đơn giản là thừa nhận vị thánh và công bố cho toàn thể hội thánh được rõ. Các thánh được tôn kính nhưng không được sùng bái. Sự thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa.[10]
Nổi bật giữa các thánh là Nữ Đồng trinh MariaTheotokos("Mẹ Thiên Chúa"). Theotokos là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở nên Mẹ của Chúa Giê-su, Đấng là Chúa thật và là Người thật. Chính Thống giáo tin rằng ngay từ lúc hoài thai, Đức Giê-su đã vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là Người trọn vẹn. Maria được gọi là Theotokos là sự xác quyết thần tính của Đấng được hoài thai trong thân xác của bà. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Maria là đồng trinh khi sinh hạ Chúa Giê-su, bà không bị đau đớn, cũng không bị tổn thương, và bà đồng trinh mãi mãi. Do vị trí đặc biệt của Maria trong công cuộc cứu rỗi, bà được tôn trọng hơn các thánh khác.[11] Do sự thánh khiết trong cuộc đời các thánh, thân thể và vật dụng của họ được giáo hội xem là thánh tích. Người ta thuật lại nhiều phép lạ liên quan đến các thánh tích, như chữa bệnh và chữa lành các vết thương.
Chung Thời học
Chính Thống giáo tin rằng khi chết linh hồn "tạm thời" tách rời khỏi thể xác, có thể sẽ ở một thời gian ngắn trên đất; sau khi chịu xét xử tạm thời sẽ được đưa đến một trong hai nơi chốn (trạng thái): trong lòng tổ phụ Abraham là nơi an lạc (Paradise) hoặc trong bóng tối của âm phủ (Sheol hay Hades). Linh hồn ở trong tình trạng này cho đến ngày Phán xét Cuối cùng, khi đó linh hồn và thể xác được hợp nhất.[12] Theo quan điểm này, tình yêu và lời cầu nguyện của người công chính có thể mang lại lợi ích cho các linh hồn đang ở âm phủ cho đến khi họ ứng hầu tron g ngày phán xét chung thẩm.[13] Đó là lý do giáo hội dành những ngày đặc biệt để cầu nguyện cho người chết. Chính Thống giáo không công nhận giáo lý về Luyện ngục (Purgatory) như Công giáo Rôma nhưng cả hai giáo hội đều nhấn mạnh tới sự cầu nguyện cho những người đã chết là những người trong âm phủ hoặc những người được cứu rỗi nhưng đang được thanh luyện trong Luyện ngục.
Dù được xem là một phần của Kinh Thánh, sách Khải Huyền, theo quan điểm Chính Thống giáo, là sách thần bí. Không chỉ có rất ít luận giải về nội dung, sách Khải Huyền không bao giờ được đọc trong các lễ thờ phượng trong nhà thờ.
Truyn thng
Hội họa và Kiến trúc
Kiến trúc Giáo đường
Đền Thánh Sava,Beograd, Serbia là một trong những nhà thờ Chính Thống giáo lớn nhất thế giới
Kiến trúc giáo đường mang nhiều ý nghĩa biểu tượng; có lẽ hình ảnh lâu đời nhất và nổi bật nhất là khái niệm xem nhà thờ là biểu trưng cho con tàu Noah (từng cứu nhân loại khỏi họa diệt vong gây ra bởi cơn Đại Hồng thủy), nay hội thánh cứu con người khỏi bị nhấn chìm trong cơn lũ của nhiều loại cám dỗ. Vì vậy, hầu hết nhà thờ Chính Thống giáo được xây dựng theo hình chữ nhật, hoặc hình thập tự giá với cánh ngang là chỗ dành cho ca đoàn.
Ảnh thánh
Thuật từ Icon (hay Ikon) có nguồn gốc từ Hi văn eikona, có nghĩa là hình ảnh. Chính Thống giáo tin rằng những bức linh ảnh hay tranh thánh đầu tiên của Chúa Giêsu và Nữ Đồng trinh Maria được ghi lại bởi Thánh sử Luca, tác giả quyển Tin Mừng thứ ba.
Các bức tượng với thế đứng tự do (miêu tả ba chiều) hầu như không được chấp nhận trong Chính Thống giáo, một phần do giáo hội chống lại tục lệ thờ lạy ngẫu tượng của người Hy Lạp ngoại giáo thời cổ đại. Trong khi đó, tranh ảnh thánh thường được dùng để trang trí vách nhà thờ.[14] Phần lớn nhà ở của tín hữu Chính Thống giáo đều dành một chỗ cho gia đình cầu nguyện, thường là bức vách về hướng đông, ở đây người ta treo nhiều tranh thánh.
Tranh ảnh thường được trưng bày chung với nến hoặc đèn dầu. (Nến sáp ong và đèn dầu olive được chuộng hơn do tự nhiên và sạch sẽ). Ngoài công dụng chiếu sáng, nến và đèn dầu còn biểu trưng cho "Ánh Sáng Thế gian", tức là Chúa Giêsu.
Huyn nhim
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/f4/Epiphany_Mass_in_the_Monastery_of_Prophet_Elias_of_Santorini.jpg/280px-Epiphany_Mass_in_the_Monastery_of_Prophet_Elias_of_Santorini.jpg
Lễ Hiển Linh tại tu viện ngôn sứ Elias,Santorini, Hy Lạp
Theo thần học Chính Thống giáo, mục tiêu của đời sống Kitô giáo là đạt đến theosis, sự hợp nhất huyền nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, theo như cách diễn đạt của Athanasius thành Alexandria trong tác phẩm Incarnation, "Ngài (Chúa Giê-su) là Thần Linh trở thành người để con người có thể trở thành thần linh (θεοποιηθῶμεν)".[15][16][17][18]
Trong ngôn ngữ của Chính Thống giáo, thuật từ "Sự Huyền nhiệm" được dùng để chỉ tiến trình hợp nhất với Thiên Chúa. Nước, dầu, bánh, rượu nho…. là các phương tiện được Chúa sử dụng để đem con dân Chúa đến gần ngài. Tiến trình này được vận hành như thế nào là một sự "huyền nhiệm" khó có thể diễn đạt trong ngôn ngữ loài người.
Những nghi thức tôn giáo mà Kitô giáo phương Tây gọi là Bí tích (Sacraments), phương Đông gọi là Huyền nhiệm Thiêng liêng (Sacred Mysteries). Trong khi Giáo hội Công giáo Rôma có bảy bí tích, và phần lớn cộng đồng Kháng Cách công nhận hai bí tích (Báp têm vàTiệc Thánh), Chính Thống giáo không hạn chế số lượng. Tuy nhiên, có bảy Huyền nhiệm lớn trong Chính Thống giáo: Tiệc Thánh, Báp têm, Kiên tín, Xưng tội, Xức dầu thánh, Hôn phối, và Tấn phong.
Chc sc
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/fd/Orthodox_clergy.jpg/200px-Orthodox_clergy.jpg
Các chức sắc Chính Thống giáo: (Từ trái sang phải) Linh mục, hai Phó tế, Giám mục
Từ buổi sơ khai, giáo hội phát triển đến nhiều nơi, các nhà lãnh đạo hội thánh tại mỗi địa phương được gọi là episkopoi (người cai quản – Hy văn ἐπίσκοπος), tức là Giám mục. Một chức vụ khác được thiết lập trong hội thánh là presbyter (trưởng lão – Hy văn πρεσβύτερος), sau trở thành "prester", rồi "priest" (thầy tư tế hoặc linh mục), và diakonos (διάκονος, người phục vụ), về sau thành deacon (chấp sự hoặc phó tế).
Chỉ có các Giám mục được yêu cầu phải sống độc thân, giáo hội cho phép linh mục và phó tế lập gia đình, và nên kết hôn trước khi được phong chức. Nhìn chung, linh mục giáo xứ được khuyến khích kết hôn, như vậy họ có đủ kinh nghiệm để khuyên bảo tín hữu trong các vấn đề hôn nhân và gia đình. Linh mục độc thân thường là tu sĩ sống trong các tu viện. Linh mục hoặc phó tế góa vợ không nên tái hôn, thường những người này sẽ vào tu viện. Tương tự, vợ góa của các linh mục cũng không nên tái hôn, mà vào tu viện khi con cái đã trưởng thành. Trước đây, phụ nữ có thể đảm nhiệm chức vụ phó tế. Tân Ước và các bản văn khác có đề cập đến vấn đề này. Các nữ phó tế từng được giao các chức trách mục vụ và giáo nghi.[19] Mặc dù truyền thống này không được duy trì (lần cuối cùng phong chức phó tế cho một phụ nữ là trong thế kỷ 19), ngày nay xem ra không có lý do gì ngăn cản phụ nữ đảm trách chức phó tế.
Thượng phụ Đại kết, tức Thượng phụ thành Constantinopolis là Tổng giám mục thành Constantinopolis và là phẩm bậc cao nhất trong Chính Thống giáo Đông phương, được coi là "primus inter pares" ("đứng đầu giữa những người bình đẳng").
Lch s[sửa | sửa mã nguồn]
Hội thánh tiên khởi[sửa | sửa mã nguồn]
Kitô giáo phát triển mau chóng trên toàn lãnh thổ Đế quốc La Mã, một phần nhờ tiếng Hy Lạp là chuyển ngữ (lingua franca) được sử dụng rộng rãi trong dân chúng, phần khác là do thông điệp Kitô giáo được xem là mới và khác với các tôn giáo cũ của người La Mã và người Hy LạpPhao-lô và các sứ đồ khác đi khắp nơi trong Đế chế, trong đó có vùng Tiểu Á, thiết lập hội thánh trong các cộng đồng dân cư, từ thành Jerusalem và Xứ Thánh, đến Antioch và vùng phụ cận, đến La Mã, AlexandriaAthensThessalonika, và Byzantium. Byzantium về sau chiếm vị trí nổi bật ở phương đông, được mệnh danh là La Mã mới. Trong thời kỳ này,Kitô giáo cũng là mục tiêu của nhiều đợt bách hại, nhưng hội thánh vẫn tiếp tục phát triển. Năm 324, Hoàng đế Constantine chấm dứt các cuộc bách hại.
Trong thế kỷ thứ tư, hội thánh phát triển sâu rộng trên nhiều xứ sở, cũng là lúc xuất hiện nhiều giáo thuyết mới, đáng kể nhất là học thuyết Arius. Học thuyết này gây nhiều ảnh hưởng, đồng thời là nguyên nhân của những tranh luận thần học bên trong hội thánh. Constantine quyết định triệu tập một công đồng lớn nhằm xác lập các quan điểm thần học cho giáo hội.
Các công đồng[sửa | sửa mã nguồn]
Chính Thống giáo công nhận bảy công đồng đại kết, được triệu tập từ năm 325 (Công đồng Nicaea I) đến năm 787 (Công đồng Nicaea II). Các công đồng này được triệu tập để giải quyết các tranh chấp thần học, đồng thời khẳng định giáo lý và giáo luật cho Chính Thống giáo.
Các dân tộc Slavơ[sửa | sửa mã nguồn]
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/7c/Cross_Procession_in_Novosibirsk_04.jpg/300px-Cross_Procession_in_Novosibirsk_04.jpg
Đoàn rước Thánh giá ở Novosibirsk, Siberia
Trong thế kỷ thứ 9 và 10, Chính Thống giáo phát triển về phía đông châu Âu, đến lãnh thổ Rus’ ở Kiev (một quốc gia thời Trung Cổ - tiền thân của Nga,Ukraina và Belarus) nhờ những nỗ lực của các thánh Kyrillos và Methodios. Khi Rastislav, vua Moravia, yêu cầu Byzantium gởi giáo viên đến dạy người Moravia bằng ngôn ngữ của họ, Hoàng đế Byzantine, Michael III, chọn hai anh em Kyrillos và Methodios. Vì mẹ của họ là người Slav đến từ Thessaloniki, cả hai đều có thể sử dụng phương ngữ Slav để dịch Kinh Thánh và các sách kinh cầu nguyện. Khi các bản dịch của họ được những người sử dụng các phương ngữ khác sao chép, một ngôn ngữ văn chương gọi là tiếng Slavgiáo hội cổ được hình thành. Được sai phái truyền giáo cho người Slav ở vùng Đại Moravia, Kyrillos và Methodios phải cạnh tranh với các giáo sĩ người Frank đến từ giáo phận Rôma. Năm 886, các môn đồ của họ bị trục xuất khỏi Moravia.
Một số trong những môn đồ của Kyrillos và Methodios như Clement, Naum (thuộc dòng dõi quý tộc Bulgaria), và Angelarius, trở lại Bulgaria. Tại đây, họ được Tsar Boris I đón tiếp. Trong một thời gian ngắn, những người này dạy các chức sắc Bulgaria bảng mẫu tự Glagolitic và các văn bản Kinh Thánh. Năm 893, ngôn ngữ Slav được công nhận là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và nhà nước. Những thành công tại Bulgaria giúp đẩy mạnh các hoạt động qui đạo của các dân tộc Slav, đáng kể nhất là dân tộc Rus’, thủy tổ của các sắc dân Belarus, Nga, và Ukraine.
Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong công cuộc truyền giáo cho các dân tộc Slav là các nhà truyền giáo sử dụng ngôn ngữ địa phương thay vì tiếng Latin, không giống cách các giáo sĩ Roma vẫn làm. Hiện nay, Giáo hội Chính thống giáo Nga là giáo hội lớn nhất trong cộng đồng Chính Thống giáo.
Đại Ly giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/46/Stavronikita_Aug2006.jpg/280px-Stavronikita_Aug2006.jpg
Thế kỷ 11 chứng kiến cuộc Đại Ly giáo, chia cắt giáo hội thành hai phần, phương Tây với Giáo hội Công giáo Rôma, và phương Đông với Giáo hội Chính Thống Đông phương. Ngoài những bất đồng về thần học như mệnh đề Filioque, và thẩm quyền của Giáo hoàng, những dị biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa Latin và Hy Lạp cũng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chia cắt. Trước đó đã nảy sinh những bất đồng giữa hai nửa giáo hội.
Cuộc ly giáo được cho là dẫn tới sự chiếm đóng và cướp phá thành Constantinople trong cuộc thập tự chinh thứ tư vào năm 1204. Sự kiện cướp phá Nhà thờ Hagia Sophia (Thánh Trí) và nỗ lực thiết lập Đế quốc Latinh nhằm thay thế Đế quốc Byzantium vẫn là một mối hiềm khích giữa hai phía kéo dài cho đến ngày nay. Năm 2004, Giáo hoàng John Paul IIchính thức xin lỗi về việc tàn phá thành Constantinople năm 1204; và lời xin lỗi được Thượng phụ Bartholomew thành Constantinople chấp nhận. Tuy nhiên, nhiều đồ vật bị đánh cắp như thánh tích, tài sản và nhiều món đồ khác, vẫn chưa được hoàn trả, nhưng còn lưu giữ ở phương Tây, nhất là ở Venice.
Năm 1272 tới năm 1274 đã có những nỗ lực hàn gắn phương Đông và phương Tây tại Công đồng Lyon II, cũng như năm 1439 tại Công đồng Florence. Nhưng cả hai công đồng đều bị cộng đồng Chính Thống giáo bác bỏ. Năm 1964, Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Đại kết Athenagoras I đã có cuộc gặp ở Jerusalem và vào năm sau đó, vạ tuyệt thông năm 1054 đã được hai giáo hội xóa bỏ.
Giáo hi ngày nay[sửa | sửa mã nguồn]
Description: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/9c/Eastern-orthodoxy-world-by-country.png/350px-Eastern-orthodoxy-world-by-country.png
Phân bổ dân số Chính Thống giáo theo quốc gia
  Đa số
  Thiểu số (trên 10%)
Mặc dù tính độc lập và quyền tự trị của các giáo phận là đặc điểm của cấu trúc tổ chức và văn hóa bản địa của Chính Thống giáo, hầu hết các giáo phận này đều hiệp thông với nhau. Gần đây, các mối quan hệ đã được phục hồi giữa Giáo hội Chính Thống ngoài Nga và Thượng phụ Moscow, hai cộng đồng này của Chính Thống giáo Nga đã tách rời khỏi nhau từ thập niên 1920, do các lý do chính trị trong thời Soviet.
Những bất đồng ngấm ngầm vẫn tồn tại trong vòng các giáo hội cấp quốc gia, một phần là do sự khác biệt trong lập trường đối với Phong trào Đại kết. Trong khi Thượng phụ thành Constantinople và các Giám mục ở Bắc Mỹ tập hợp xung quanh Hội đồng Giám mục Chính Thống giáo châu Mỹ, thì các Giám mục România mở các cuộc đàm phán với Giáo hội Công giáo Rôma. Mặt khác, nhiều người, trong đó có các tu sĩ Núi Athos, các Giám mục Nga,Serbia, cùng các chức sắc Hy Lạp và Bulgaria xem phong trào đại kết là một sự thỏa hiệp vềthần học. Thay vì vậy, theo họ, Chính Thống giáo nên rao giảng chân lý trong tình yêu thương hầu có thể lôi kéo các tín hữu thuộc các giáo phái khác nhau đến với đức tin Chính Thống giáo.
Hiện nay, Chính Thống giáo Đông phương có khoảng 350 triệu tín hữu.