Chính Thống Giáo Đông Phương
Bách khoa
toàn thư mở Wikipedia
Chính
Thống giáo Đông phương là nhánh Kitô
giáo lớn thứ nhì trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo
Rôma. Đây là nhóm các giáo hội Kitô giáo đại diện cho
truyền thống Kitô giáo Đông phương.
Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về Kitô giáo sơ khai và tuyên bố
họ mới là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do Chúa Kitô thiết
lập, xem chính mình là Giáo
hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.
Trong
thiên niên kỉ đầu của Kitô giáo, Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma cùng
là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phương và tây phương.
Vào thế
kỷ 11, các khác biệt này dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054,
phân chia thành Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma.
Tín
hữu Chính Thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung
thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo
hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần
học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền
thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua
quyền tông truyền,
đặc biệt là Thánh
Anrê.
Tín
hữu Chính Thống giáo xem giáo hội của họ là:
·
Hội thánh nguyên
thủy được thiết lập bởiChúa Giê-su Ki-tô và
các sứ đồ.
·
Giáo huấn và truyền
thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu
truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở
rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy.
·
Tân
Ước viết cho tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai và
trình bày các giáo lý đã có sẵn của hội thánh (ngụ ý Giáo hội là nền tảng của
Tân Ước).
Giáo
hội thiết lập và bảo tồn lịch Kitô giáo nguyên thủy (dựa trên lịch
Julius), xác lập những ngày lễ kỷ niệm các sự kiện quan
trọng trong cuộc đời Chúa Giê-su.
Theo
dòng lịch sử, các Giáo hội Chính Thống giáo chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp với
các thành phố như Alexandria, Antiochia,
và Constantinopolis (nay
là Istanbul);
trong khi đó Giáo hội Công giáo gắn liền với văn hóa Latinh với trung tâm
là Roma.
Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai
phần: phương Đông và phương Tây.
Mục lục
Cấu trúc
Nghi
thức trao chức đọc sách tại một chủng viện Chính thống giáo Nga.
Chính
Thống giáo xem Chúa Giê-su là
đầu của hội thánh và hội thánh là thân thể của ngài. Người ta tin rằng thẩm
quyền và ân
điển của Thiên
Chúa được truyền trực tiếp xuống các Giám
mục và chức sắc giáo hội qua việc đặt tay – một nghi
thức được khởi xướng bởi các sứ đồ, và sự nối tiếp lịch sử liên tục này là yếu
tố căn bản của giáo hội (Công vụ 8:17; 1Tim 4:14; Heb 6:2). Mỗi Giám mục cai
quản giáo phận của mình. Nhiệm vụ chính của Giám mục là gìn giữ các truyền
thống và quy tắc của giáo hội khỏi bị vi phạm. Các Giám mục có thẩm quyền ngang
nhau và không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về mặt hành chính,
các Giám mục và các giáo phận được tổ chức thành các nhóm tự quản, trong đó các
Giám mục họp ít nhất hai lần mỗi năm để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến
giáo phận của họ. Khi xuất hiện các học thuyết dị giáo, một "đại"
công đồng được triệu tập qui tụ tất cả Giám mục. Giáo hội xem bảy công đồng đầu
tiên (từ thế
kỷ 4 đến thế
kỷ 8) là quan trọng nhất mặc dù các hội nghị khác cũng góp
phần định hình quan điểm của Chính Thống giáo. Những công đồng này không thiết
lập giáo lý cho hội thánh nhưng chỉ so sánh các học thuyết mới với các xác tín
truyền thống của giáo hội. Học thuyết nào không phù hợp với truyền thống giáo
hội bị xem là dị giáo và bị loại trừ khỏi giáo hội. Các công đồng được tổ chức
theo thể thức dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi Giám mục một lá phiếu. Dù được
phép dự họp và phát biểu tại công đồng, quan lại triều đình Rôma hay Byzantine,
tu viện trưởng, linh
mục, tu sĩ hoặc tín đồ không có quyền bầu phiếu. Trước
cuộc Đại Ly giáo năm 1054, Giám mục thủ đô La Mã, tức Giáo
hoàng, dù không có mặt tại tất cả công đồng, vẫn được xem
là chủ tọa công đồng và được gọi là "Người đứng đầu giữa những người bình
đẳng". Một trong những nghị quyết của công đồng thứ nhì, được khẳng định
bởi các công đồng sau, là Giám mục thành Constantinople (Constantinople được
xem là Rôma mới) được dành vị trí thứ hai. Sau khi tách khỏi Rôma, vị trí chủ
tọa công đồng được dành cho Thượng phụ thành
Constantinopolis với danh hiệu "Người
đứng đầu giữa những người bình đẳng", thể hiện sự bình đẳng của chức vụ
này trong phương diện hành chính và tâm linh. Người đảm nhiệm chức vụ này không
được xem là đầu của hội thánh hoặc giáo chủ.
Theo
các ước tính, số tín hữu Chính Thống giáo là từ 150-350 triệu người[1].
Chính Thống Đông phương cũng là tôn giáo phổ biến nhất ở Belarus (89%), Bulgaria (86%), Cộng hòa Cyprus (88%), Gruzia (89%), Hy
Lạp (98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro(84%), România (89%), Nga(76%)[2], Serbia (88%),
và Ukraina (83%)[3].
Tại Bosnia và Herzegovina,
tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là
48%, tại Estonia là 13% và 18%
ở Latvia.
Thêm vào đó là các cộng đồng Chính Thống giáo ở châu
Phi, châu
Á, Úc, Bắc
Mỹ và Nam
Mỹ.
Giáo lý
|
Một phần trong loạt bài về
|
|
·
Giê-su
·
Ki-tô
·
Sứ vụ
·
Khổ hình
|
|
·
Nền tảng
·
Cựu Ước
·
Tân Ước
·
Phúc Âm
·
Quy điển
·
Thư mục
·
Giáo hội
|
|
o Cha
o Con
·
Cứu rỗi
·
Kitô học
|
|
·
Lịch sử
·
Maria
·
Sứ đồ
·
Phêrô
·
Phaolô
·
Giáo phụ
·
Luther
|
|
Liên quan[ẩn]
·
Âm nhạc
·
Đại kết
·
Liên tôn
·
Phụng vụ
|
|
·
Hệ phái
·
Nhóm
|
|
·
x
·
t
·
s
|
Ba Ngôi
Tín
hữu Chính Thống giáo tin một Thiên
Chúa duy nhất, hiện hữu trong Ba
Ngôi vị (Hypostases) là Cha và Con và Thánh Linh. Chúa
Cha tự hữu, Chúa
Con sinh bởi Chúa Cha và Chúa Thánh Linh nhiệm
xuất từ Chúa Cha. Thiên Chúa là Ba Ngôi hiệp nhất trong một Bản thể (Ousia),
không lẫn giữa các ngôi với nhau, cũng không phân chia bản thể – Thiên Chúa duy
nhất là Đấng tự hữu, hằng hữu, vĩnh cửu, và phi vật chất.[4] Xác
tín này được trình bày trong bản Tín điều Nicaea.[5]
Tội lỗi và sự Cứu rỗi
Bản
chất của con người, trước khi sa ngã, là tinh tuyền và vô tội. Nhưng hành động
bất tuân Thiên Chúa của Adam và Eva trongVườn
Eden đã để tội
lỗi và sự bại hoại thâm nhập vào bản chất tinh tuyền
ấy. Tình trạng bất khiết này đã ngăn cản con người hưởngVương
quốc Thiên đàng. Song, khi Thiên Chúa hóa thân
thành người trên dương thế, ngài đã thay đổi bản chất ấy bằng cách hiệp nhất
con người với Thiên Chúa; do đó, Chúa Kitô thường được gọi là "Adam
mới". Bằng cách trở thành người, chết trên cây thập tự, và sống lại, ngài
đã thánh hóa các phương tiện ân điển, nhờ đó chúng ta được trở lại với tình
trạng tinh tuyền nguyên thủy và phục hòa vớiThiên
Chúa. Điều này Chính Thống giáo gọi là được cứu khỏi tình
trạng bệnh tật của tội lỗi. Quyền năng của sự cứu
rỗi giải thoát mọi người công chính khỏi quyền lực
trói buộc của tội lỗi, kể từ buổi sáng thế, trong đó có cả Adam và Eva.
Sự Phục sinh của
Chúa Giê-su là sự kiện quan trọng nhất mà lịch phụng vụ
Chính Thống giáo đặt làm trọng tâm. Thống giáo tin đây là một sự kiện lịch sử
và Chúa Giê-su thật sự sống lại trong thân xác. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, bị
đóng đinh, sau khi chết, đến ngày thứ ba Ngài sống lại để cứu rỗi nhân loại.
Ngài đã giải thoát loài người khỏi quyền lực của hỏa ngục.
Như thế, mọi kẻ tin Ngài đều có thể thông phần vào sự sống vĩnh hằng.
Chính
Thống giáo xem mình là sự nối tiếp lịch sử từ hội thánh tiên khởi được thành
lập bởi Chúa Giê-su và các sứ đồ.[6] Đức
tin được truyền dạy bởi Chúa Giê-su và các sứ đồ mặc lấy sức sống bởi Chúa
Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần, được lưu truyền
qua nhiều thế hệ, được gọi là Thánh Truyền (Truyền thống thánh).[7] Lời
chứng chủ yếu và có thẩm quyền cho Thánh Truyền là Kinh
Thánh, được viết ra và được chuẩn thuận bởi các sứ đồ để ký
thuật chân lý được mặc khải và lịch sử tiên khởi của hội thánh. Bởi vì Thánh
Kinh được linh hứng, nên được xem là trọng tâm của sự sống hội thánh.
Theo
quan điểm Chính Thống giáo, Thánh Kinh luôn được giải thích trong nội hàm của
Thánh Truyền. Thánh Truyền đã hình thành và quy điển Thánh Kinh. Tín hữu Chính
Thống giáo tin rằng Thánh Kinh không độc lập với giáo hội, do dó, cách duy nhất
để hiểu Thánh Kinh là giải thích Thánh Kinh trong nội dung truyền thống giáo
hội.[8]
Thánh
Truyền còn bao gồm lễ nghi, ảnh thánh, phán quyết của các công đồng và giáo
huấn của các Giáo phụ. Từ sự đồng thuận của các Giáo
phụ (consensus patrum) mà người ta có thể
hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về đời sống của giáo hội. Tín hữu Chính Thống
giáo tin rằng quan điểm của từng giáo phụ riêng lẻ không được xem là vô ngộ
(không sai lầm), nhưng sự đồng thuận của các giáo phụ sẽ giúp mang đến một sự
hiểu biết chân xác về Thánh Kinh và các giáo thuyết, nhờ sự hướng dẫn của Chúa.[9]
Đức
Mẹ Vladimir, một trong những bức ikon được tôn kính nhất của Nga.
Chính
Thống giáo tin rằng sự chết và sự tách rời linh hồn khỏi thể xác vốn là điều không
bình thường, là hậu quả của tình trạng sa ngã của loài người. Họ cũng tin rằng
hội thánh bao gồm người sống và người đã khuất. Mọi người đang sống trên thiên
đàng đều là thánh, dù tên tuổi của họ có được biết đến hay không. Tuy nhiên, có
những vị thánh đặc biệt mà Chúa muốn chúng ta biết để noi theo. Khi một vị
thánh được đa số trong giáo hội thừa nhận, một buổi lễ vinh danh được cử hành
cho vị thánh này. Điều này không có nghĩa là phong thánh cho vị ấy, nhưng chỉ
đơn giản là thừa nhận vị thánh và công bố cho toàn thể hội thánh được rõ. Các
thánh được tôn kính nhưng không được sùng bái. Sự thờ phượng chỉ dành cho Thiên
Chúa.[10]
Nổi
bật giữa các thánh là Nữ Đồng trinh Maria, Theotokos("Mẹ
Thiên Chúa"). Theotokos là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở nên Mẹ
của Chúa Giê-su, Đấng là Chúa thật và là Người thật. Chính Thống giáo tin rằng
ngay từ lúc hoài thai, Đức Giê-su đã vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là Người
trọn vẹn. Maria được gọi là Theotokos là sự xác quyết thần
tính của Đấng được hoài thai trong thân xác của bà. Tín hữu Chính Thống giáo
tin rằng Maria là đồng trinh khi sinh hạ Chúa Giê-su, bà không bị đau đớn, cũng
không bị tổn thương, và bà đồng trinh mãi mãi. Do vị trí đặc biệt của Maria
trong công cuộc cứu rỗi, bà được tôn trọng hơn các thánh khác.[11] Do
sự thánh khiết trong cuộc đời các thánh, thân thể và vật dụng của họ được giáo
hội xem là thánh tích. Người ta thuật lại nhiều phép lạ liên quan đến các thánh
tích, như chữa bệnh và chữa lành các vết thương.
Chung Thời học
Chính
Thống giáo tin rằng khi chết linh hồn "tạm thời" tách rời khỏi thể
xác, có thể sẽ ở một thời gian ngắn trên đất; sau khi chịu xét xử tạm thời sẽ
được đưa đến một trong hai nơi chốn (trạng thái): trong lòng tổ phụ Abraham là
nơi an lạc (Paradise) hoặc trong bóng tối của âm phủ (Sheol hay Hades).
Linh hồn ở trong tình trạng này cho đến ngày Phán xét Cuối cùng, khi đó linh
hồn và thể xác được hợp nhất.[12] Theo
quan điểm này, tình yêu và lời cầu nguyện của người công chính có thể mang lại
lợi ích cho các linh hồn đang ở âm phủ cho đến khi họ ứng hầu tron g ngày phán
xét chung thẩm.[13] Đó
là lý do giáo hội dành những ngày đặc biệt để cầu nguyện cho người chết. Chính
Thống giáo không công nhận giáo lý về Luyện ngục (Purgatory) như Công
giáo Rôma nhưng cả hai giáo hội đều nhấn mạnh tới sự cầu nguyện cho những người
đã chết là những người trong âm phủ hoặc những người được cứu rỗi nhưng đang
được thanh luyện trong Luyện ngục.
Dù
được xem là một phần của Kinh Thánh, sách Khải Huyền, theo quan điểm
Chính Thống giáo, là sách thần bí. Không chỉ có rất ít luận giải về nội dung,
sách Khải Huyền không bao giờ được đọc trong các lễ thờ phượng trong nhà thờ.
Truyền thống
Hội họa và Kiến trúc
Kiến trúc Giáo đường
Kiến
trúc giáo đường mang nhiều ý nghĩa biểu tượng; có lẽ hình ảnh lâu đời nhất và
nổi bật nhất là khái niệm xem nhà thờ là biểu trưng cho con tàu Noah (từng
cứu nhân loại khỏi họa diệt vong gây ra bởi cơn Đại Hồng thủy),
nay hội thánh cứu con người khỏi bị nhấn chìm trong cơn lũ của nhiều loại cám
dỗ. Vì vậy, hầu hết nhà thờ Chính Thống giáo được xây dựng theo hình chữ nhật,
hoặc hình thập tự giá với cánh ngang là chỗ dành cho ca đoàn.
Ảnh thánh
Thuật
từ Icon (hay Ikon) có nguồn gốc từ Hi văn eikona,
có nghĩa là hình ảnh. Chính Thống giáo tin rằng những bức linh ảnh hay
tranh thánh đầu tiên của Chúa Giêsu và Nữ Đồng trinh Maria được ghi lại bởi
Thánh sử Luca, tác giả quyển Tin Mừng thứ ba.
Các
bức tượng với thế đứng tự do (miêu tả ba chiều) hầu như không được chấp nhận
trong Chính Thống giáo, một phần do giáo hội chống lại tục lệ thờ lạy ngẫu tượng
của người Hy Lạp ngoại giáo thời cổ đại. Trong khi đó, tranh ảnh thánh thường
được dùng để trang trí vách nhà thờ.[14] Phần
lớn nhà ở của tín hữu Chính Thống giáo đều dành một chỗ cho gia đình cầu
nguyện, thường là bức vách về hướng đông, ở đây người ta treo nhiều tranh
thánh.
Tranh
ảnh thường được trưng bày chung với nến hoặc đèn dầu. (Nến sáp ong và đèn dầu
olive được chuộng hơn do tự nhiên và sạch sẽ). Ngoài công dụng chiếu sáng, nến
và đèn dầu còn biểu trưng cho "Ánh Sáng Thế gian", tức là Chúa Giêsu.
Huyền nhiệm
Theo
thần học Chính Thống giáo, mục tiêu của đời sống Kitô giáo là đạt đến theosis,
sự hợp nhất huyền nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, theo như cách diễn đạt
của Athanasius thành
Alexandria trong tác phẩm Incarnation,
"Ngài (Chúa Giê-su) là Thần Linh trở thành người để con người có thể trở
thành thần linh (θεοποιηθῶμεν)".[15][16][17][18]
Trong
ngôn ngữ của Chính Thống giáo, thuật từ "Sự Huyền nhiệm" được dùng để
chỉ tiến trình hợp nhất với Thiên Chúa. Nước, dầu, bánh, rượu nho…. là các
phương tiện được Chúa sử dụng để đem con dân Chúa đến gần ngài. Tiến trình này
được vận hành như thế nào là một sự "huyền nhiệm" khó có thể diễn đạt
trong ngôn ngữ loài người.
Những
nghi thức tôn giáo mà Kitô giáo phương Tây gọi là Bí tích (Sacraments),
phương Đông gọi là Huyền
nhiệm Thiêng liêng (Sacred Mysteries).
Trong khi Giáo hội Công giáo
Rôma có bảy bí tích, và phần lớn cộng đồng Kháng
Cách công nhận hai bí tích (Báp
têm vàTiệc
Thánh), Chính Thống giáo không hạn chế số lượng. Tuy nhiên,
có bảy Huyền nhiệm lớn trong Chính Thống giáo: Tiệc Thánh, Báp têm, Kiên tín,
Xưng tội, Xức dầu thánh, Hôn phối, và Tấn phong.
Chức sắc
Các
chức sắc Chính Thống giáo: (Từ trái sang phải) Linh mục, hai Phó tế, Giám mục
Từ
buổi sơ khai, giáo hội phát triển đến nhiều nơi, các nhà lãnh đạo hội thánh tại
mỗi địa phương được gọi là episkopoi (người cai quản – Hy văn ἐπίσκοπος),
tức là Giám mục. Một chức vụ khác được thiết lập trong hội thánh là presbyter (trưởng
lão – Hy văn πρεσβύτερος), sau trở thành "prester", rồi "priest"
(thầy tư tế hoặc linh mục), và diakonos (διάκονος, người phục
vụ), về sau thành deacon (chấp sự hoặc phó tế).
Chỉ
có các Giám mục được yêu cầu phải sống độc thân, giáo hội cho phép linh mục và
phó tế lập gia đình, và nên kết hôn trước khi được phong chức. Nhìn chung, linh
mục giáo xứ được khuyến khích kết hôn, như vậy họ có đủ kinh nghiệm để khuyên
bảo tín hữu trong các vấn đề hôn nhân và gia đình. Linh mục độc thân thường là
tu sĩ sống trong các tu viện. Linh mục hoặc phó tế góa vợ không nên tái hôn,
thường những người này sẽ vào tu viện. Tương tự, vợ góa của các linh mục cũng
không nên tái hôn, mà vào tu viện khi con cái đã trưởng thành. Trước đây, phụ
nữ có thể đảm nhiệm chức vụ phó tế. Tân Ước và các bản văn khác có đề cập đến
vấn đề này. Các nữ phó tế từng được giao các chức trách mục vụ và giáo nghi.[19] Mặc
dù truyền thống này không được duy trì (lần cuối cùng phong chức phó tế cho một
phụ nữ là trong thế
kỷ 19), ngày nay xem ra không có lý do gì ngăn cản phụ nữ
đảm trách chức phó tế.
Thượng
phụ Đại kết, tức Thượng phụ thành Constantinopolis là
Tổng giám mục thành Constantinopolis và là phẩm bậc cao nhất trong Chính Thống
giáo Đông phương, được coi là "primus inter pares" ("đứng
đầu giữa những người bình đẳng").
Kitô
giáo phát triển mau chóng trên toàn lãnh thổ Đế quốc La Mã,
một phần nhờ tiếng Hy Lạp là chuyển ngữ (lingua franca) được sử dụng
rộng rãi trong dân chúng, phần khác là do thông điệp Kitô giáo được xem là mới
và khác với các tôn giáo cũ của người La Mã và người Hy
Lạp. Phao-lô và các sứ đồ
khác đi khắp nơi trong Đế chế, trong đó có vùng Tiểu
Á, thiết lập hội thánh trong các cộng đồng dân cư, từ
thành Jerusalem và Xứ Thánh,
đến Antioch và
vùng phụ cận, đến La Mã, Alexandria, Athens, Thessalonika,
và Byzantium. Byzantium về sau
chiếm vị trí nổi bật ở phương đông, được mệnh danh là La Mã mới. Trong thời kỳ
này,Kitô giáo cũng là mục
tiêu của nhiều đợt bách hại, nhưng hội thánh vẫn tiếp tục phát triển. Năm 324,
Hoàng đế Constantine chấm
dứt các cuộc bách hại.
Trong
thế kỷ thứ tư, hội thánh phát triển sâu rộng trên nhiều xứ sở, cũng là lúc xuất
hiện nhiều giáo thuyết mới, đáng kể nhất là học thuyết Arius.
Học thuyết này gây nhiều ảnh hưởng, đồng thời là nguyên nhân của những tranh
luận thần học bên trong hội thánh. Constantine quyết định triệu tập một công
đồng lớn nhằm xác lập các quan điểm thần học cho giáo hội.
Chính
Thống giáo công nhận bảy công đồng đại kết,
được triệu tập từ năm 325 (Công đồng Nicaea I) đến năm 787 (Công đồng Nicaea
II). Các công đồng này được triệu tập để giải quyết các tranh chấp thần học, đồng
thời khẳng định giáo lý và giáo luật cho Chính Thống giáo.
Trong
thế kỷ thứ 9 và 10, Chính Thống giáo phát triển về phía đông châu Âu, đến lãnh
thổ Rus’ ở Kiev (một quốc gia thời Trung Cổ - tiền thân của Nga,Ukraina và Belarus)
nhờ những nỗ lực của các thánh Kyrillos và Methodios.
Khi Rastislav, vua Moravia, yêu cầu Byzantium gởi giáo viên đến dạy người
Moravia bằng ngôn ngữ của họ, Hoàng đế Byzantine, Michael III, chọn hai anh em
Kyrillos và Methodios. Vì mẹ của họ là người Slav đến
từ Thessaloniki, cả hai đều có thể sử dụng phương ngữ Slav để dịch Kinh
Thánh và các sách kinh cầu nguyện. Khi các bản dịch
của họ được những người sử dụng các phương ngữ khác sao chép, một ngôn ngữ văn
chương gọi là tiếng Slavgiáo
hội cổ được hình thành. Được sai phái truyền giáo cho người Slav ở vùng Đại
Moravia, Kyrillos và Methodios phải cạnh tranh với các giáo sĩ người Frank đến từ giáo
phận Rôma. Năm 886, các môn đồ của họ bị trục xuất khỏi Moravia.
Một
số trong những môn đồ của Kyrillos và Methodios như Clement, Naum (thuộc dòng
dõi quý tộc Bulgaria), và Angelarius, trở lại Bulgaria.
Tại đây, họ được Tsar Boris I đón tiếp. Trong một thời gian ngắn, những người
này dạy các chức sắc Bulgaria bảng mẫu
tự Glagolitic và các văn bản Kinh Thánh. Năm 893, ngôn ngữ
Slav được công nhận là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và nhà nước. Những
thành công tại Bulgaria giúp đẩy mạnh các hoạt động qui đạo của các dân tộc
Slav, đáng kể nhất là dân tộc Rus’, thủy tổ của các sắc dân Belarus, Nga, và
Ukraine.
Một
trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong công cuộc truyền giáo cho các
dân tộc Slav là các nhà truyền giáo sử dụng ngôn ngữ địa phương thay vì tiếng
Latin, không giống cách các giáo sĩ Roma vẫn làm. Hiện nay, Giáo hội Chính
thống giáo Nga là giáo hội lớn nhất trong
cộng đồng Chính Thống giáo.
Thế
kỷ 11 chứng kiến cuộc Đại Ly giáo,
chia cắt giáo hội thành hai phần, phương Tây với Giáo hội Công giáo Rôma, và
phương Đông với Giáo hội Chính Thống Đông phương. Ngoài những bất đồng về thần
học như mệnh đề Filioque, và thẩm quyền của Giáo hoàng, những dị
biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa Latin và Hy Lạp cũng là những
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chia cắt. Trước đó đã nảy sinh những bất đồng
giữa hai nửa giáo hội.
Cuộc
ly giáo được cho là dẫn tới sự chiếm đóng và cướp phá thành Constantinople
trong cuộc thập tự chinh thứ tư vào năm 1204.
Sự kiện cướp phá Nhà thờ Hagia
Sophia (Thánh Trí) và nỗ lực thiết lập Đế quốc Latinh nhằm
thay thế Đế quốc Byzantium vẫn
là một mối hiềm khích giữa hai phía kéo dài cho đến ngày nay. Năm 2004,
Giáo hoàng John Paul IIchính
thức xin lỗi về việc tàn phá thành Constantinople năm 1204; và lời xin lỗi được
Thượng phụ Bartholomew thành Constantinople chấp nhận. Tuy nhiên, nhiều đồ vật
bị đánh cắp như thánh tích, tài sản và nhiều món đồ khác, vẫn chưa được hoàn
trả, nhưng còn lưu giữ ở phương Tây, nhất là ở Venice.
Năm 1272 tới
năm 1274 đã
có những nỗ lực hàn gắn phương Đông và phương Tây tại Công đồng Lyon II, cũng
như năm 1439 tại
Công đồng Florence. Nhưng cả hai công đồng đều bị cộng đồng Chính Thống giáo
bác bỏ. Năm 1964, Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Đại kết Athenagoras I đã
có cuộc gặp ở Jerusalem và vào năm sau đó, vạ tuyệt thông năm 1054 đã được hai
giáo hội xóa bỏ.
Phân bổ dân số Chính Thống giáo
theo quốc gia
Đa
số
Thiểu
số (trên 10%)
Mặc
dù tính độc lập và quyền tự trị của các giáo phận là đặc điểm của cấu trúc tổ
chức và văn hóa bản địa của Chính Thống giáo, hầu hết các giáo phận này đều
hiệp thông với nhau. Gần đây, các mối quan hệ đã được phục hồi giữa Giáo hội
Chính Thống ngoài Nga và Thượng phụ Moscow, hai cộng đồng này của Chính Thống
giáo Nga đã tách rời khỏi nhau từ thập niên 1920, do các lý do chính trị trong
thời Soviet.
Những
bất đồng ngấm ngầm vẫn tồn tại trong vòng các giáo hội cấp quốc gia, một phần
là do sự khác biệt trong lập trường đối với Phong trào Đại kết.
Trong khi Thượng phụ thành
Constantinople và các Giám mục ở Bắc
Mỹ tập hợp xung quanh Hội đồng Giám mục Chính Thống
giáo châu Mỹ, thì các Giám
mục România mở các cuộc
đàm phán với Giáo hội Công giáo
Rôma. Mặt khác, nhiều người, trong đó có các tu sĩ Núi
Athos, các Giám
mục Nga,Serbia,
cùng các chức sắc Hy
Lạp và Bulgaria xem
phong trào đại kết là một sự thỏa hiệp vềthần
học. Thay vì vậy, theo họ, Chính Thống giáo nên rao giảng
chân lý trong tình yêu thương hầu có thể lôi kéo các tín hữu thuộc các giáo
phái khác nhau đến với đức tin Chính Thống giáo.
Hiện
nay, Chính Thống giáo Đông phương có khoảng 350 triệu tín hữu.









Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire