|
Hoa đào và máu đào (I)
Nhân giỗ thứ 43 Tổng thống Ngô Đình
Diệm (2/11/1963)
Minh Võ
Khi giáo sư Francis X. Winters cho ra cuốn The Year of the Hare (1),
năm 1997, ông có nói đến cành đào có đính danh thiếp của “Chủ Tịch Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh tặng Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥòa Ngô Đ́nh
Diệm” được trưng bày tại pḥòng khánh tiết dinh Độc Lập, Sài G̣òn trong
ngày Tết Qúy Mão (1963). Nhiều người đã hết sức ngạc nhiên. Làm sao một sự
việc quan trọng như vậy mà cho đến nay mới nghe nói? Chính người viết cũng
bán tín bán nghi. Nhưng mới đây, khoảng đầu năm 2006, ông Quách Ṭòng Đức,
nguyên đổng lý văn pḥòng phủ tổng thống, đă xác nhận điều đó với luật sư
Lâm Lễ Trinh, trong một cuộc phỏng vấn được đăng trên nhiều báo ở Mỹ. Sau
đó cựu nghị sĩ Lê Châu Lộc, lúc ấy c̣òn là tùy viên của Tổng Thống Diệm,
cho chúng tôi biết thêm là chính ông đă nhận cành đào đó từ trụ sở Ủy Hội
Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến (ICC). Cành đào rất lớn, nhưng có lẽ v́ì danh
thiếp nhỏ, nên ít người để ý.
|
|
|
Môi son tươi thắm cánh đào xuân
Nguồn: g3studios.com
|
Từ ngày hoa đào xuất hiện tại dinh tổng
thống cho đến ngày vị tổng thống đầu tiên đổ máu đào trong một cuộc đảo
chính chỉ có 9 tháng. Nhưng đây là thời gian xảy ra không biết bao nhiêu sự
việc liên quan đến hoa đào và máu đào mà cho đến nay vẫn c̣òn bị che phủ
dưới những lớp màn bí ẩn.
Người ta đã có thể ví cành đào của ông Hồ với ả đào Điêu Thuyền của Vương
Doăn (Môi son tươi thắm cánh đào xuân) từng là cái cớ cho Lữ Bố giết
cha nuôi là Đổng Trác. Hay nhắc lại mưu sâu của Chu Du xúi Tôn Quyền gả em
gái cho Lưu Bị để thừa dịp họ Lưu tới đón dâu giết quách đi. Nhưng mưu
người em không qua mắt được người anh là Khổng Minh Gia Cát Lượng. Sự mưu
hại không thành. Lưu Huyền Đức đă không hề hấn ǵì mà lại được vợ đẹp. Tiếc rằng “nhà Ngô”
không có được một Khổng Minh như nhà Thục. Ngô Đ́nh Nhu đă được một tác giả
ẩn danh nào đó (2) so sánh với Khổng Minh, trong một tác phẩm 3 tập,
dài cả ngàn trang, không đưa anh em ḿình thoát ra khỏi cái lưới nhện đă
giăng ra. Âu cũng là định mệnh của con người và vận nước.
Những dữ kiện liên quan đến cành đào – Hôm nay, nhân giỗ thứ 43 của
Tổng Thống Ngô Đ́ình Diệm, tưởng cũng là dịp để ngắm kỹ lại cành đào định
mệnh và ôn lại một vài sự việc liên quan. Và hăng tạm quên đi cái chết c̣òn
chưa được hoàn toàn sáng tỏ của Tổng Thống Ngô Đ́ình Diệm, cũng giống như
cái chết hăy c̣òn đầy bí ẩn của Tổng Thống John F. Kennedy chỉ sau đó 3
tuần. V́ì đă có lần chúng tôi, cũng như một số tác giả khác đă viết về cái
chết này rồi.
Chúng tôi thiết nghĩ, cành đào không phải là nguyên nhân chính, càng không
phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến cái chết của Tổng Thống Diệm. Chúng
tôi cũng không đa nghi đến độ cho rằng ông Hồ, dù nổi tiếng là thâm hiểm,
đă cố t́ình giăng bẫy để gián tiếp giết ông Diệm qua một vài nhà ngoại giao
Mỹ và mấy tướng phản bội.
Theo thiển ý, cành đào có thể được coi như cái bắt tay với hảo ý mở đầu môt
cuộc đối thoại ḥòng đi tới hiệp thương giữa hai chế độ thù địch. Tiếc rằng
đoạn kết lại là máu.
Sự liên hệ Hồ – Ngô xem ra có nhiều nguồn gốc sâu xa trong đó phải kể đến
xu hướng trung lập nói chung của Ấn Độ trong khối các quốc gia không liên
kết và tham vọng trung lập hóa Đông Dương của tướng De Gaulle của Pháp. Lúc
ấy đại sứ Ấn Độ ở Sài G̣òn đồng thời cũng là chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm
Soát Đ́ình Chiến (ICC) tại Đông Dương. Cho nên đại sứ Ấn Độ Goburdhun và
đại sứ Pháp Roger Lalouette là hai người đóng vai chính trong việc bắc cây
“cầu Hiền Lương” qua sông Bến Hải.
Giáo Sư Bửu Hội, nhà vật lý nguyên tử nổi danh quốc tế, và là nhà bác học
duy nhất của Việt Nam lúc ấy, từng có lúc là cố vấn của Hồ Chí Minh, (4)
lại tán thành đường lối chính sách của Tổng Thống Diệm, và đang giữ một
chức đại sứ của Cộng Ḥòa Việt Nam. Biết được tham vọng trung lập hóa Đông
Dương của De Gaulle, ông đă tiếp xúc với vị tổng thống Pháp, đề nghị để đại
sứ Lalouette thu xếp cùng với đại sứ Ấn Độ làm thế nào tạo cơ hội cho
trưởng đoàn Ba Lan trong ủy hội Kiểm Soát Đ́nh Chiến là Mieczyslaw Maneli
có thể gặp ông Ngô Đ́nh Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống
Diệm. Xem ra “đồng lõa” với hai vị này c̣òn có đại sứ Ý Giovanni d’Orlandi
và đại diện của Vatican tại Việt Nam là Đức Cha Salvatore D’Asta.
B́ìh luận gia nổi tiếng Joseph Alsop viết trên tờ New York Herald Tribune
ngày 18/9/1963 rằng Tổng Thống Diệm đã từng tiết lộ với ông về việc viên
tổng lãnh sự Pháp ở Hà Nội là Jacques de Buzon nhờ đại sứ Lalouette xin
phép được vào Sài G̣òn “đổi gió”. Tổng Thống đồng ý. Và ông Hồ cũng chấp
thuận. Khi Lalouette dẫn Buzon vào gặp tổng thống th́ì Buzon cho biết là
lúc đó thái độ của nhà cầm quyền Hà Nội đối với ông Diệm đă có chiều thay
đổi. Ông Hồ gọi ông Diệm là người tốt và yêu nước. Lạ một điều là ngoài chi
tiết nhỏ đó, Buzon không mang một thông điệp nào quan trọng hơn. Phải chăng
đây là một cách bắn tiếng hai bên có thể xích lại gần nhau, trước khi có
một cử chỉ thân thiện là tặng cành đào chúc Tết?
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, cháu gọi Tổng Thống Diệm bằng cậu ruột trong môt
chuyến viếng thăm Nam Cali ít lâu trước khi qua đời đã tiết lộ sự việc sau
với cựu trung tá Nguyễn Văn Minh, từng là chánh văn pḥòng của ông Ngô
Đ́ình Cẩn trong 8 năm:
Khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ trước,
Hồng Y có đến thăm một công cán ủy viên của Vua Bỉ th́ì được ông này cho
biết chiếc ghế mà hồng y ngồi chính là chỗ một cán bộ cao cấp của Hà Nội đă
ngồi trước kia để xin ông công cán ủy viên làm môi giới tiếp xúc với Tổng
Thống Diệm bàn tính chuyện hai miền Nam Bắc hiệp thương. Tưởng cần thêm
rằng vị công cán uỷ viên này, mà ông Minh quên (hay chưa muốn tiết lộ?)
danh tánh, đă từng tiếp đón và săn sóc ông Diệm trong thời gian ông mới từ
Mỹ sang Âu Châu năm 1953.
< Cựu trung tá Nguyễn Văn Minh c̣òn cho biết, sau đảo chính tướng
Tôn Thất Đính, tổng trưởng Nội Vụ, đă mời ông tới văn pḥòng chỉ cho xem
một đống tài liệu mà tướng Đính bảo là những thư từ liên lạc giữa hai bên
và là “tang chứng rành rành về việc anh em ông Diệm bán đứng miền Nam cho
cộng sản, đâm sau lưng chiến sĩ. V́ì
vậy mà chúng tôi phải lật ông.” (3)
Một số giới chức Đệ Nhất Công Ḥa c̣òn nói đến “tin đồn” về những cuộc gặp
gỡ bí mật giữa Ngô Đ́ình Nhu và Phạm Hùng tại B́ình Tuy, trong những cuộc
đi săn trá h́ình nào đó.
Theo Stanley Karnow, nhà báo thiên tả, trở thành sử gia nổi tiếng nhờ cuốn Vietnam
a history, cho biết chính bà Ngô Đ́nh Nhu đă xác nhận những cuôc tiếp
xúc giữa hai miền và c̣òn nói bà đă chuẩn bị để gửi hai người con lớn ra Hà
Nội, coi như một “cử chỉ huynh đệ”. Karnow đă để hai từ “fraternal gesture” trong ngoặc kép. (4)
Vừa đây trong một cuộc phỏng vấn dành độc quyền cho nhà văn, nhà báo Trần Phong
Vũ, ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă
nói, anh em ông Diệm biết trung tá Phạm Ngọc Thảo là điệp viên Cộng Sản
nhưng vẫn dùng để pḥòng hờ có lúc cần liên lạc với đối phương. Người ta
c̣òn nhớ trong cuộc đảo chính 1/11/63, chính Phạm Ngọc Thảo đă đến dinh Gia
Long định đón ông Diệm. Nhưng khi đến nơi th́ì ông đă vào Chợ Lớn. Nhiều
người c̣òn nói Phạm Ngọc Thảo là gián điệp hai, ba mang nữa. Họ dựa vào 2
sự kiện mâu thuẫn: sau biến cố 30 tháng tư, cộng sản đă tuyên dương Phạm
Ngọc Thảo, nhưng vợ con của ông ta th́ì lại được Mỹ giúp phương tiện sang
định cư ở Nam Cali.
|
|
|
Đạo diễn đảo chánh: Henry Cabot Lodge
với Nguyễn Khánh, với một trong nhiều tài tử nhận lệnh của Mỹ
Nguồn: Kennedy i
|
Theo giáo sư Francis X. Winters, liền sau khi được tin ông Diệm đă đầu
hàng, ngoại trưởng Dean Rusk đă gửi một điện văn dài nồng nhiệt chúc mừng
đại sứ Lodge đă thành công vẻ vang và hối thúc ông Lodge công bố ngay việc
ông Diệm tính chuyện bắt tay với Hồ Chí Minh. (5)
Nữ giáo sư khoa sử Marilyn Young, tác giả cuốn Vietnam War 1945–1990
cho biết trong khi chính quyền Kennedy đang bàn thảo kế hoạch đối phó với
t́ình h́ình Việt Nam th́ì được tin ông Nhu đang công nhiên bàn về khả năng
trực tiếp thương lượng với Hà Nội. Bà viết: “Theo Roger Hilsman (phụ tá
ngoại trưởng. MV), th́ì mục đích tối thiểu của Nhu là giảm bớt thật nhiều
sự có mặt của cố vấn Mỹ; c̣òn mục tiêu tối đa của ông ta là chấm dứt hoàn
toàn sự có mặt của người Mỹ, và biến Nam Việt Nam thành một nước trung lập,
hay theo thể chế Ti Tô, nhưng vẫn tách rời khỏi Bắc Việt….” (6)
Trên đây chỉ là một số tài liệu trong số những bài báo và trang sách đă nói
đến toan tính hiệp thương giữa hai miền Nam – Bắc. Chỉ với ngần ấy tài liệu
chúng ta cũng có thể xác quyết, quả thực đă có một nỗ lực từ cả hai phía
cho mục tiêu này, mặc dù cho đến nay chưa hề có một tài liệu chính thức nào
của Đệ Nhất Cộng Ḥòa, hay của nhà cầm quyền cộng sản được công bố.
Tại sao anh em ông Diệm toan tính hiệp thương? – Một vài tài liệu
khác có thể giúp giải đáp hai câu hỏi này.
Trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (7) tác giả Hoành Linh Đỗ
Mậu, từng tôn Ngô Đ́ình Diệm là “lănh tụ anh minh”, nhưng cũng lại là người
hăng hái nhất trong cuộc đảo chính lật ông Diệm, có trích dẫn bức thư của
ông Võ Như Nguyện (đă gần trăm tuổi hiện c̣òn sống ở Pau, Pháp Quốc), gửi
một người bạn của ông, cũng là bạn của tác giả, là Hoàng Đồng Tiếu. Bức thư
đề ngày 24/11/1977. Cuối thư có đoạn thuật lại lời ông Diệm tâm sự với ông
Nguyện:
“… Vả tôi với chú Nhu có ý dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp nhưng đều
là máu mủ ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh,
đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản. Rồi bên nào kéo dài, chung quy sẽ bị lệ
thuộc vào một cường quốc và đất nước chia rẽ, v́ì các cường quốc có ý định chia
rẽ cả….”
Trưng dẫn lá thư này, ông Đỗ Mậu nhằm tố cáo ông Diệm đă manh nha ý đồ bắt
tay với Hồ Chí Minh, coi đó như một cái tội “đâm sau lưng chiến sĩ chống
Cộng”. Nhưng, nh́ìn vấn đề dưới góc độ khác, người ta sẽ thấy ông Diệm
muốn tránh đổ máu chừng nào tốt chừng đó và không muốn để các cường quốc
đắc lợi trong cuộc tranh chấp nội bộ.
Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của trung tá John Paul Vann, cố vấn sư đoàn
7 thời ấy đă tố cáo ông Diệm có khẩu lệnh mật cho các tư lệnh Việt Nam
tránh các cuộc hành quân lớn gây thương vong nhiều. Ông Vann cũng như một
vài nhà báo và sử gia sau này trưng dẫn lời ông Vann, đă hàm ý rằng ông
Diệm không muốn đánh cộng sản, chỉ muốn duy tŕì lực lượng để bảo vệ cái
ghế tổng thống của ông, hay chỉ muốn đánh cầm chừng, nh́ì nhằng, kéo dài
chiến tranh, ḥòng tiếp tục nhận tiền viện trợ… Nhưng nếu nh́ìn lời tố cáo
dưới khía cạnh khác, th́ì rất có thể khi có khẩu lệnh mật đó, anh em ông
Diệm đang toan tính nói chuyện với Bắc Việt, và không muốn những cuộc giao
tranh lớn làm trở ngại việc thương thuyết. (8).
Trong Nguyên Sa Hồi Ký (ấn hành năm 1998), giáo sư Trần Bích Lan,
tức nhà thơ nổi tiếng có những vần thơ hay đến huyễn hoặc ḷòng người, đă
thuật lại chuyện ông và hai giáo sư Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Xuân Nghiên đă
có dịp nghe Tổng Thống Diệm trả lời một trong 3 câu hỏi của các ông một
cách tương tự. Câu hỏi là tại sao ta không dồn lực lượng đánh một vài trận
lớn để giải quyết chiến tranh mau chóng mà cứ đánh cầm chừng nh́ì nhằng như
thế này. Ông Diệm đă nói đại ý: Bản chất cái chiến tranh này nó như thế. Mở
rộng chỉ chết thêm lính và dân, mà cũng chẳng giải quyết được nhanh. Ba
mươi lăm năm sau, nh́ìn lại, nhà giáo và nhà thơ của chúng ta đă thấy câu
trả lời của ông Diệm không phải ngụy biện như các ông nghĩ lúc trước, mà là
những lời tiên đoán thời cuộc rất chính xác.
Chúng tôi nhắc chuyện này theo như những ǵì c̣òn nhớ về lời phát biểu của
nhà giáo Lưu Trung Khảo, là một người thân của nhà thơ Nguyên Sa, trong một
dịp ra mắt sách ở Quận Cam năm 1998.
Những ǵì ông Ngô Đ́nh Nhu nói trong một lễ bế mạc lớp học tập về Ấp Chiến
Lươc khóa XII, ngày 22/6/1963… cũng tương tự như thế:
“Chúng ta là một nước nhỏ bé đứng giữa hai khối. Nếu bên thế giới tự
do tăng cường viện trợ cho ta th́ì thế giới cộng sản cũng sẽ tăng viện trợ
cho phía họ. Hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng
ngày càng lên cao. Và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?” (9)
Đã rõ anh em ông Diệm không muốn đánh lớn v́ì sẽ phải lệ thuộc quá nhiều
vào viện trợ Mỹ, và sẽ làm cớ cho Liên Xô và Trung Cộng nhảy vào xâu xé
Việt Nam.
Cứ nh́ìn vào lý thuyết Ấp Chiến Lược, với những chính sách Tam Túc (10),
Tam Giác của ông Nhu th́ì càng thấy các ông đă chuẩn bị từ trước, để cố
thoát khỏi sự ràng buộc tai hại của ngoại viện.
Tư liệu của một bà “thủy chung” với ông Diệm – Có lẽ người cung cấp
nhiều tài liệu nhất về vấn đề này là nữ tiến sĩ Ellen Hammer. Bà là sử gia,
nhà báo và học giả sớm nổi tiếng về các vấn đề Việt Nam. Năm 1947, mới ra
trường, c̣òn độc thân ở tuổi 25, bà đă có một tác phẩm loại này nhan đề The
Emergence Of Vietnam. Bà là bạn rất thân với nhà bác học Bửu Hội, và
hoàn toàn chia sẻ với ông về việc ủng hộ Tổng Thống Ngô Đ́ình Diệm. Douglas Pike đã
mỉa mai bảo bà trung thành riêng vớí ông Diệm – personally loyal to Diệm –
. Có thể nói là “thủy chung” đến nỗi từ khi ông Diệm chết, bà bỏ hẳn việc
viết lách, không màng bày tỏ ư kiến về thời cuộc nữa. (*) Nhưng rồi
đùng một cái, năm 1987, 24 năm sau, bà lại cầm bút, chỉ để bênh vực ông
Diệm và chỉ trích chính quyền Kennedy, trong đó có một vài người trong bộ
ngoại giao đă dùng những mánh lới không hay ho ǵ để cố lật cho bằng được
ông Diệm. Đó là cuốn A Death In November: America
In Vietnam,
1963. (**)
Theo Ellen Hammer th́ì khi luật sư Mieczyslaw Maneli, trưởng đoàn Ba Lan
trong Ủy hội kiểm sóat đ́ình chiến từ Hà Nội vào Sài G̣òn mùa xuân năm 1963
liền được một số nhà ngoại giao tiếp xúc để đưa đến giới thiệu vói ông Ngô
Đ́nh Nhu. Trong khi họ đang t́ìm một dịp may để hai người gặp nhau, th́ì
biến cố Phật Giáo xảy ra. V́ì vậy cuối tháng 8 việc đó mới thực hiện được.
Họ gặp nhau trong buổi tiếp tân ngoại giao đoàn đầu tiên của tân ngoại
trưởng Trương Công Cừu. Ông Cabot Lodge cũng có mặt thành cái đinh của buổi
lễ. V́ì vậy chẳng thấy có dấu hiệu nào bất thường trước sự hiện diện của
Maneli, môt người Cộng Sản, trong buổi tiếp tân của ngoại trưởng Việt Nam
Cộng Hoà (VNCH). Maneli đứng nói chuyện với đức cha Asta, đại diện Vatican.
Một lát sau ông này quay sang ông Ngô Đ́nh Nhu và giới thiệu Maneli. Lập
tức 3 nhà ngoại giao khác cùng tiến về phía họ. Đó là các ông Lalouette,
đại sứ Pháp, Goburdhun, đại sứ Ấn, chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế; và d’Orlandi,
đại sứ Ý.
Hammer thuật lại:
“Ông Nhu nói với Maneli: ‘Tôi đã nghe
các bạn của chúng tôi nói nhiều về ông’.... Ông ta tiếp: Nhân dân Việt Nam có môt sự
nhậy cảm và không tin cậy chẳng những đối với người Trung Hoa, mà đối với
tất cả những nước thực dân hay chiếm đóng. Tất cả.” Maneli tự hỏi, phải
chăng ông Nhu có ý nói Hoa Kỳ, và có lẽ ông ta không phải là người duy nhất
trong số những nhà ngoại giao nghe chuyện tự hỏi như thế.
“Rồi ông Nhu lại nói: “Lúc này đây, chúng tôi đang quan tâm tới ḥòa b́ình,
và chỉ quan tâm tới ḥòa b́ình mà thôi. Tôi tin rằng Ủy Hội Quốc Tế có thể
và nên đóng một vai tṛò quan trọng trong việc đem lại ḥòa b́ình cho Việt Nam.”
“Maneli trả lời sẵn sàng giữ vai tṛò tích cực nhất.”...
“Sau đó Maneli nhận được thư mời tới gặp ông Nhu tại dinh Gia Long vào ngày
2/9/63.
“Khi ông Goburdhun đi Hà Nội với tư cách chủ tịch UHQT ông ta thấy chính
phủ miền Bắc không có vẻ ǵì coi cuộc chiến tại miền Nam là lý do để từ
chối giao thương với chế độ Sài G̣òn. Hồ Chí Minh bảo Goburdhun: “Ngô Đ́ình
Diệm là người yêu nước theo cách của ông ta... Hăy bắt tay ông ấy thay tôi,
nếu gặp.”
“Đến Hà Nội mùa xuân 1963, Maneli đă chuyển lời của đại sứ Pháp cho Hồ Chí
Minh: Ông Diệm sẽ đáp ứng, nếu Hà Nội đi bước trước. Ông ấy muốn làm giảm
áp lực của Mỹ. Hà Nội đáp: Cứ để ông ta chứng tỏ thiện chí đi. Ông ta có
thể dần dần mở liên lạc bưu chính với miền Bắc và nhận than đá của miền Bắc
đổi gạo của miền Nam.
Miền Bắc sẵn sàng chấp nhận một nền dân chủ kiểu Tây Phương ở miền Nam và sẽ
không thúc ép phải mau chóng thống nhất.
Sau đó vài tháng ông Hồ đă đưa ra lời kêu gọi công khai về một thỏa hiệp
đ́ình chiến.
Hammer viết tiếp:
“Người Bắc nh́ìn thấy những mối lợi
trong việc thương lượng với ông Nhu trong giai đoạn này. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng nói: “Dầu sao ông Nhu chắc chắn có khả năng tư duy một cách lô–gích;
ông ta tốt nghiệp đại học École Des Chartes mà.” Maneli hỏi nên làm ǵì,
nếu gặp ông Nhu, th́ì Đồng nói: “Cứ đến và nghe cho thật kỹ. Có một điều
chắc chắn: Người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam. Trên căn bản chính trị đó
chúng tôi có thể thương lượng về mọi việc. Chúng tôi thực ḷòng muốn chấm
dứt chiến tranh, tái lập ḥòa b́ình trên căn bản thực tiễn. Chúng tôi rất
thực tiễn.”
Theo Ellen Hammer th́ì đại sứ Pháp rất lo lắng khi nghe tin sẽ có đảo
chính. Ông bảo Maneli rằng chỉ có Ngô Đ́ình Diệm đủ can đảm để làm việc cho
ḥòa b́ình. Ngoài ra bất cứ kẻ nào lên thay cũng sẽ lệ thuộc hơn vào Mỹ.
Nỗi lo của Lalouette dịu đi khi biết Maneli đă có thể gặp Ngô Đ́ình Nhu
đúng hẹn (2/9/63). Nhưng khi biết ông Nhu c̣òn quá dè dặt trong câu chuyện
với Maneli, th́ì lại thất vọng. Dường như ông ta c̣òn sợ Mỹ và tính thối
lui trong ý định hiệp thương. Sau này, biết ông Nhu tiết lộ với Cabot Lodge
về những cuộc tiếp xúc mà ông ta phủ nhận với Maneli, hay đúng ra không dám
minh thị công nhận trước những câu hỏi của Maneli, th́ì Lalouette bảo
Maneli: (nguyên văn lời của Hammer) “Nếu ông ta không dứt được những ảo tưởng
với người Mỹ, ông ta sẽ tiêu mất. Thực là một lỗi lầm bi thảm.”
Sau này Lalouette đă nói với Hammmer rằng thời gian ấy ông ta đă cố thuyết
phục Cabot Lodge đừng làm đảo chính. Nhưng không sao lay chuyển được Cabot
Lodge, và, lời của Hammer, “Cuối cùng ông ta (Lalouette) bó buộc phải tin
rằng người Mỹ này (Lodge) đă được phái tới Việt Nam với mệnh lệnh là phải
sớm loại bỏ ông Diệm cho bằng được.”
Về vai tṛò của Roger Hilsman trong việc loại bỏ ông Diệm, Hammer viết:
“Tại Washington, Roger Hilsman trong giác thư
ngày 16/9 đă định nghĩa cái mà ông tin là mục tiêu tối thiểu của ông Nhu,
“giảm thiểu rõ rệt sự có mặt của người Mỹ tại những vị trí có ý nghĩa chính
trị ở các tỉnh và trong chương tŕình Ấp Chiến Lược”. C̣òn mục tiêu tối đa
của ông ta là “thương lượng với miền Bắc để ngưng chiến, chấm dứt hoàn toàn
sự hiện diện của người Mỹ....”
Và đó là lý do Hilsman đưa ra để bác bỏ đường lối ḥòa hoãn đối với ông
Diệm. Nghĩa là quyết phải hạ ông Diệm cho bằng được.
Hammer cho biết, chính sách áp lực với Diệm mà Hilsman đề nghị đã được hội
đồng an ninh quốc gia chấp thuận ngày 17/9/63. (11)
Kỳ sau: Tiếng nói của vai chính – Nhân vật chính là
Mieczyslaw Maneli đã viết ǵì về vấn
đề này.
Copyright © 2006 DCVOnline
Chú thích:
(1): Năm Con Thỏ, tức Năm Măo, Người Việt ta thường gọi là
năm Con Mèo, 1963. Sách do University Georgia Press xuất bản, Athens, 1997, chương
đầu, trang 12.
(2): Xem Ngô Đ́ình Nhu, tác giả FW.09 do Ng.Thi Muôn xuất
bản, năm 1990 tại Fresno.
(Tập I)
(3): Ḍòng Họ Ngô Đ́ình, Giấc Mơ Chưa Đạt, Nguyễn Văn Minh,
NXB Hoàng Nguyên, Nam Cali, 2003, trang 295 và 290.
(4): Vietnam:
A history, Penguin group, NY, 1991, trang 307 và 308.
(5): SĐD trang 1016.
(6): SĐĐ trang 101. Về mục tiêu tối thiểu của ông Nhu mà bà Young
nói đây th́ì chính phái đoàn McNamara–Taylor năm đó cũng báo cáo với tổng
thống Mỹ rằng t́ình h́ình nông thôn ổn định khiến có thể rút 1000 cố vấn
vào năm sau (1964). Cho nên chính Tổng Thống Kennedy cũng có ý định đó, chứ
không chỉ là ý kiến riêng của ông Nhu. Tiếc rằng việc toan tính rút hay
giảm bót sự hiện diện của Mỹ, dù từ phía nào đều trái với những toan tính
mở rộng chiến tranh để bán, tiêu thụ và thử một số vũ khí nào đó của những
tay trùm tư bản, đang nắm một siêu quyền lực.
(7): SĐD, NXB Văn Nghệ, Nam Cali, 1993, trang 1007.
(8): Xin xem 1) John M. Newman, JFK and Vietnam, NXB A Time
Warner Co. 1992, các trang 299, 455. 2) Stanley Karnow, Vietnam:
A history, NXB Viking Penguin, 1991, trang 276.
(9): Xem Nguyễn Văn Minh, SĐD trang 292.
(10): Tam túc: tự túc về tư tưởng; tự túc về tổ chức và tiếp liệu;
tự túc về kỹ thuật.
(*): Cựu đại sứ Mỹ tại Việt Nam Frederick Nolting cũng bất măn về
việc ông Diệm bị hạ và bị giết đă xin được từ bỏ mọi chức vụ công quyền
ngày 25/2/64. (From Trust To Tragedy)
(**): NXB E.P. Dutton, 1987.
(11): Roger Hilsman, phụ tá ngoại trưởng về Đông Nam Á, đă cùng với
thứ trưởng Averell Harriman, cố vấn an ninh Michael Forestal và một số nhà
báo trẻ ở trong nhóm Diem Mus Go (Diệm phải xuống) do Harriman lănh
đạo. V́ì thế ta thấy Hilsman đă nhân việc ông Nhu tính thương lượng với
miền Bắc thuyết phục dược hội đồng an ninh quốc gia chấp thuận biện pháp
dứt khoát loại bỏ ông Diệm. Trước hết họ chỉ nhắm bắt ông Diệm loại ông bà
Nhu. Nhưng ông Diệm không chịu. Chúng tôi đă tóm tắt và trích dẫn những câu
quan trọng nhất của nữ tiến sĩ Ellen Hammer liên quan đến việc đệ nhất CHVN
toan tính thương lượng với Bắc việt. Muốn biết đầy đủ chi tiết xin xem A
Death In November của tác giả, (NXB E.P. Dutton, 1987) từ trang 220 đến
262).
|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire