lundi 28 mars 2016

Thiên Chúa có hiện hữu không?







Thiên Chúa có hiện hữu không?

Xin mời bấm vào đây:

http://www.oui-dieu-existe.fr/?indice=preuve-que-Dieu-existe 




Toàn bộ bài giảng lừng danh của cha Raniero Cantalamessa ngày thứ Sáu Tuần Thánh
VietCatholic News (16/04/2006)

Thiên Chúa biểu lộ tình yêu

của Ngài cho chúng ta

 


Cha Raniero Cantalamessa
Lúc 5 giờ chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Thánh Cha đã chủ sự nghi thức Tưởng Niệm Chúa Giêsu chịu chết trên thánh giá tại đền thờ Thánh Phêrô trước sự hiện diện của hơn 10,000 anh chị em tín hữu.

Sau bài Thương Khó, cha Raniero Cantalamessa, thuộc dòng Capucinô, giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã thuyết giảng về đề tài "Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta". Dưới đây là bản dịch Việt Ngữ bài thuyết giảng của ngài.

1. Kitô hữu, hãy cẩn trọng trong hành động!

"Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường". (2 Tim 4:3-4).

Lời Thánh Kinh này – và cách riêng là sự ám chỉ đến chuyện ngứa tai muốn nghe bất cứ điều gì mới lạ - đang được thể hiện trong một cách thế mới lạ và đầy ấn tượng trong thời đại chúng ta. Khi chúng ta đang cử hành nơi đây việc tưởng niệm cuộc thương khó và cái chết của Chúa Cứu Thế, hàng triệu người đang bị quyến rũ bởi những dã sử tài tình để tin rằng Chúa Giêsu Nagiarét chưa từng bị đóng đinh bao giờ. Tại Hoa Kỳ, một cuốn sách bán chạy nhất hiện nay là cuốn Phúc Âm của Thánh Tôma, được trình bày như một cuốn Phúc Âm "đoạn tuyệt chúng ta khỏi chuyện đóng đinh, coi chuyện phục sinh là không cần thiết, và không trình bày với chúng ta một Thiên Chúa tên là Giêsu"[1].

Mấy năm trước đây, Raymond Brown, một học giả Thánh Kinh chuyên về Cuộc Thương Khó viết: "Một nhận thức đáng xấu hổ trong bản chất thâm sâu của con người là hễ càng ly kỳ bao nhiêu thì càng lôi cuốn và càng hốt bạc bấy nhiêu. Những ai không bao giờ bận tâm chịu đọc những lý giải có trách nhiệm về truyền thống đề cập đến việc Chúa Giêsu bị đóng đinh thế nào, chết ra sao, mai táng và sống lại từ trong kẻ chết cách nào, lại tỏ ra hào hứng trước báo cáo về những 'khám phá mới' trong đó Ngài không hề chịu đóng đinh, hay không hề chết, đặc biệt là nếu khám phá ấy còn dẫn đến chuyện Ngài bỏ trốn cùng Maria Mađalêna sang Ấn Độ.., Những giả thuyết này chứng tỏ rằng liên quan đến cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, bất chấp những tin tưởng phổ biến, trí tưởng tượng của con người đi quá xa với sự thật, và thường khi vô tình hay hữu ý tỏ ra có lợi lộc hơn"[2]

Người ta nói nhiều về sự bội phản của Giuđa mà không nhận thức rằng họ đang lặp lại chuyện ấy. Chúa Kitô lại bị bán lần nữa, không phải cho các thủ lĩnh Sanhedrin lấy ba mươi đồng bạc nhưng cho các chủ bút và các chủ tiệm sách để lấy hàng tỉ bạc. Không ai có thể ngăn chặn nổi làn sóng suy đoán này, chẳng những thế còn dẫn đến việc phát hành ngay lập tức một bộ phim nào đó; nhưng sau nhiều năm ưu tư với lịch sử của Kitô Giáo Tiên Khởi, tôi cảm thấy có nghĩa vụ kêu gọi mọi người chú ý đến một sự hiểu nhầm to lớn là nền tảng của tất cả những văn chương dã sử này.

Những ngụy thư mà họ dựa vào là những văn bản đã luôn luôn được biết đến, toàn bộ hay từng phần, nhưng ngay cả các sử gia gay gắt hay thù hận với Kitô Giáo nhất cũng chưa từng dám nghĩ lịch sử đã diễn ra như thế. Cũng tuồng như là trong vòng hai thế kỷ tới đây người ta viết lại lịch sử của ngày hôm nay dựa trên một cuốn tiểu thuyết xuất bản trong thời chúng ta.

Cái sai lầm to lớn là người ta đang dùng những văn bản này để buộc chúng phải nói ngược lại với những gì chúng muốn diễn tả. Những văn bản này là một phần của văn chương ngộ đạo [Phái Ngộ Đạo Gnosticism là lạc giáo chủ trương gần với Phật Giáo cho rằng thế gian này chỉ là ảo ảnh và người ta có thể đạt đến ơn cứu độ chỉ bằng sự hiểu biết - chú thích của người dịch] trong thế kỷ thứ hai và thứ ba. Viễn kiến của phái ngộ đạo – một thứ tổng hợp của thuyết nhị nguyên Platon và các học thuyết Đông Phương, được khoác vỏ bên ngoài bằng những tư tưởng Thánh Kinh – chủ trương rằng thế giới vật chất chỉ là một ảo ảnh, và là tác phẩm của một Thượng Đế thời Cựu Ước, một thần dữ, hay chí ít cũng là một thần không quan trọng; và rằng Chúa Kitô không hề chết trên thánh giá, vì ngài không hề mặc lấy thân xác loài người, trừ ra vẻ bên ngoài, vì thân xác con người không xứng đáng với Thiên Chúa (Docetism) [Docetism: lạc giáo chủ trương Chúa Giêsu không mặc lấy thân xác loài người, hình dáng con người của Ngài đứng trước các môn đệ và những người cùng thời chỉ là ảo ảnh].

Theo Phúc Âm của Giuđa, được nói nhiều đến trong những ngày gần đây, chính Chúa Giêsu đã truyền cho môn đệ này hãy phản bội Ngài ngõ hầu qua cái chết thần khí bên trong Ngài có thể được giải thoát khỏi vỏ bọc thể xác và tái thăng hoa về trời. Nói kiểu đó sẽ dẫn đến việc tránh không nên có hôn nhân hướng đến sinh sản. Vì người phụ nữ chỉ có thể được giải thoát nếu "nguyên lý nữ tính - feminine principle (thelus)" hoá thân bởi bà được chuyển hóa thành nguyên lý nam tính, nghĩa là, nếu bà ngưng không là phụ nữ nữa.[3]

Điều khôi hài là nhiều người ngày nay tin rằng họ thấy trong những bản văn này sự suy tôn nguyên lý nữ tính, suy tôn tính dục, suy tôn sự hưởng lạc đầy đủ và phóng túng của thế giới vật chất, trái với huấn quyền chính thức của Hội Thánh thường tỏ ra ngăn trở tất cả những điều này! Một sai lầm tương tự cũng được ghi nhận ở đây liên quan đến thuyết đầu thai. Thuyết này được các tôn giáo Đông Phương trình bày như một thứ hình phạt vì những tội lỗi trước đây đã phạm và người ta phải cố hết sức mình chấm dứt cái vòng luân hồi này. Thuyết này lại được chấp nhận tại Phương Tây với sự hớn hở vui mừng vì triển vọng kỳ diệu là được sống và hưởng thụ cái thế giới này mãi mãi.

Trên đây là những vấn nạn lẽ ra không nên đề cập đến nơi đây và trong ngày này, nhưng chúng ta không thể cho phép sự im lặng của các tín hữu được hiểu như là sự xấu hổ và niềm tin (hay sự ngu xuẩn?) của hàng triệu con người bị lèo lái điên dại bởi các phương tiện truyền thông, mà không kêu gào lên một tiếng phản đối, không chỉ nhân danh đức tin nhưng còn vì lý lẽ thông thường và một lý trí lành mạnh. Giờ phút này, tôi tin rằng, thật thích hợp để nghe lại lời cảnh cáo của Dante Alighieri:

Kitô hữu, cẩn trọng trong hành động:

Đừng như một cọng lông chim trước gió,

Cũng đừng nghĩ rằng nước nào cũng thanh tẩy được mình.

Anh chị em có Tân và Cựu Ước

Và các Mục Tử của Hội Thánh hướng dẫn;

Hãy coi đó là tất cả điều cần cho ơn cứu độ...

Hãy là những con người, chứ đừng là cừu non ngơ ngác.[4]

2. Thương Khó có trước Nhập Thể!

Nhưng chúng ta hãy dẹp những chuyện ly kỳ đó sang một bên. Chúng có cùng một lời giải thích chung: Chúng ta đang sống trong thời đại truyền thông và các phương tiện truyền thông hứng thú với tiểu thuyết nhiều hơn là sự thật. Chúng ta hãy chú tâm vào mầu nhiệm đang được cử hành. Cách tốt nhất để suy niệm trong năm nay về mầu nhiệm ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là đọc lại toàn bộ phần đầu thông điệp của Đức Thánh Cha "Thiên Chúa là Tình Yêu". Không thể thực hiện điều đó nơi đây, tôi xin tối thiểu được bình luận về một vài đoạn có liên quan trực tiếp hơn với mầu nhiệm ngày hôm nay. Chúng ta đọc thấy trong thông điệp:

"Khi chiêm niệm cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu của Chúa Kitô chúng ta có thể hiểu được điểm khởi hành của Thông Điệp này 'Thiên Chúa là tình yêu'. Chính đó là điểm để chiêm niệm chân lý này. Định nghĩa tình yêu của chúng ta cần phải bắt đầu từ đó. Trong chiêm niệm này, người Kitô hữu khám phá ra con đường theo đó cuộc sống và tình yêu của mình phải dõi bước theo." [5]

Chính thế, Thiên Chúa là tình yêu! Người ta nói rằng nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản còn lại; và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang còn lại, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được: và nếu dòng đó từ Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan trong đó viết "Thiên Chúa là tình yêu!" thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.

Tôi sống thuở thiếu thời trong một túp nhà tranh chỉ cách đường dây điện cao thế có vài mét, nhưng chúng tôi sống trong bóng đêm, hay dưới ánh sáng của những ngọn đèn cầy. Giữa chúng tôi và đường giây điện là một đường ray xe lửa, và trong khi chiến tranh đang tiếp diễn, không ai buồn nghĩ đến chuyện khắc phục trở ngại này. Điều này cũng xảy đến với tình yêu của Thiên Chúa: tình yêu của Ngài ở đó, trong tầm với của chúng ta, có thể chiếu sáng và sưởi ấm mọi thứ trong đời ta, nhưng chúng ta cứ sống trong bóng đêm và lạnh lẽo. Đó là lý do chân thật duy nhất cho sự đau buồn trong cuộc đời.

Thiên Chúa là tình yêu, và thập giá của Chúa Kitô là minh chứng, là dẫn chứng lịch sử tối thượng. Nicholas Cabasilas, một tác giả Đông Phương, cho rằng có hai cách thể hiện tình yêu với người khác. Cách thứ nhất bao gồm làm điều tốt cho người mình yêu, tặng quà cho họ; cách thứ hai đòi hỏi hy sinh hơn nhiều, bao gồm sự đau khổ vì người mình yêu. Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng cách thứ nhất, với một tình yêu hào phóng khi tạo dựng nên ta, Chúa tuôn đổ trên ta những hồng ân bên trong và bên ngoài chúng ta; Ngài cũng đã yêu chúng ta với một tình yêu khổ đau khi cứu chuộc ta, khi Ngài nghĩ ra cách hủy diệt chính mình, chịu đau khổ vì ta trong cách thế đau đớn nhất, để minh chứng cho ta thấy tình yêu của Ngài.[6] Do đó, chính nơi thập giá ta phải chiêm ngắm sự thật rằng "Thiên Chúa là tình yêu".

Chữ "passion" (thương khó) có hai nghĩa: Nó chỉ định một tình yêu tha thiết, "passionate", hay một đau thương. Có sự giao lưu giữa hai điều này và kinh nghiệm hàng ngày cho thấy chúng qua lại với nhau dễ dàng thế nào. Cũng thế, và trên hết, nơi Thiên Chúa, có một tình yêu tha thiết mà Origen đã viết rằng tình yêu này xảy ra trước việc nhập thể. Chính Thiên Chúa luôn dưỡng nuôi trong lòng một "tình yêu tha thiết" đối với nhân loại mà đến thời viên mãn, Ngài đã xuống thế làm người và chịu đau khổ vì chúng ta.[7]

3. Ba thứ bậc của sự cao trọng

Thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu" chỉ ra một cách thức mới trong việc bảo vệ đức tin Công Giáo, có lẽ là cách thức khả thi duy nhất ngày nay và chắc chắn là hiệu quả nhất. Nó không đối chọi những giá trị siêu nhiên với những giá trị tự nhiên, tình yêu Chúa với tình yêu nhân loại, bác ái và tình ái, nhưng chỉ ra sự hài hòa nguyên tuyền cần phải liên tục được khám phá và hàn gắn vì tội lỗi và sự yếu đuối nhân loại. Thánh Kinh không chỉ trùng hợp với những lý tưởng của nhân loại, mà trong nghĩa nhìn nhận chúng, Thánh Kinh tái lập, thăng hoa và bảo vệ chúng. Thánh Kinh không loại trừ tình ái khỏi cuộc sống nhưng trái lại, Thánh Kinh loại trừ nọc độc vị kỷ trong tình ái.

Trong tác phẩm nổi tiếng "Pensées."[8], Pascal cho rằng có ba thứ bậc của sự cao trọng. Thứ nhất là thứ bậc liên quan đến vật chất hay con người: nó đề cao những ai giàu có, những ai có sức khoẻ lực sĩ hay dung nhan xinh đẹp. Đó là một giá trị không nên xem thường nhưng đó chỉ là thứ hạng thấp nhất. Trên đó là thứ bậc của tài năng ưu việt và trí thông minh mà những triết gia, những nhà phát minh, những khoa học gia, những nghệ sĩ và nhà thơ trở nên nổi bật. Đây là một bậc với một phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm vào hay trừ ra điều gì từ những thiên tài. Những dị dạng thể lý trên những con người này không lấy đi điều gì từ vẻ đẹp của những suy tư của Socrates, hay những vần thơ của Leopardi.

Giá trị của tài năng chắc chắn là cao hơn cái trước, nhưng đó cũng chưa phải là cao nhất. Trên nó còn một thứ bậc cao hơn, và đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng tốt (Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiện và ơn sủng). Gounod cho rằng một giọt thánh thiện đáng giá hơn một đại dương tài năng. Đẹp hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm gì hay bớt đi điều gì khỏi một vị thánh. Sự cao cả của ngài thuộc về một thứ bậc khác.

Đức tin Kitô thuộc về bậc thứ ba này. Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại giáo hỏi Thánh Tông Đồ Phêrô khi ngài mới đến Rôma: Nhã Điển đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực, tôn giáo của ông đem lại điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu! Tình yêu là thứ mong manh nhất trên trần đời; nó hình tượng, và nó giống như trẻ nhỏ. Nó có thể bị giết dễ dàng như chúng ta đã thấy trong bàng hoàng việc giết chết một trẻ nhỏ dễ đến mức nào trong thời đại hôm nay. Nhưng quyền lực và khôn ngoan, nghĩa là sức mạnh và tài năng, trở thành cái gì nếu không có tình yêu và lòng tốt? Chúng trở thành Auschwitz, Hiroshima và Nagasaki và tất cả những thứ khác mà chúng ta biết rất rõ.

4. Tình yêu thứ tha

Thông điệp viết tiếp: "Chúng ta đã thấy rằng eros của Thiên Chúa dành cho loài người cũng hoàn toàn là agape. Điều này không chỉ vì tình yêu này được trao ban một cách rất hào phóng, nhưng không, nhưng còn vì đó là một tình yêu tha thứ. (số. 10).

Phẩm chất tình yêu này được phản chiếu ở mức cao nhất trong mầu nhiệm thánh giá. "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" Đức Giêsu đã nói nơi bàn Tiệc Ly (Ga 15:13). Ta có thể kêu lên: Lạy Chúa có một tình yêu còn cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Đó là tình Chúa! Ngài không thí mạng sống cho bạn hữu nhưng cho kẻ thù của mình! Thánh Phaolô thốt lên "Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi" (Rm 5:7-8).

Tuy nhiên, không mất nhiều thời gian để khám ra điều tương phản chỉ là hiển nhiên. Chữ "bạn" trong nghĩa tích cực chỉ định những ai thương mình, nhưng trong nghĩa tiêu cực nó chỉ định những ai mình thương. Chúa Giêsu gọi Giuđa là "bạn" (Mt 26:50) không phải vì Giuđa thương Ngài, nhưng vì Ngài thương Giuđa! Không một tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì kẻ thù, coi họ như bạn hữu: đó là ý nghĩa của lời Chúa. Con người có thể là kẻ thù của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa mãi mãi không là kẻ thù của nhân loại. Đó là lợi thế khủng khiếp của con cái trước cha (hay mẹ) chúng.

Chúng ta cần suy tư theo cách này, đặc biệt, tình yêu của Chúa Kitô trên thánh giá có thể giúp con người ngày nay tìm thấy, "định hướng của cuộc sống và tình yêu" như thông điệp đã nói. Đó là một tình yêu thương xót, một tình yêu thứ tha và tha thứ, không muốn tiêu diệt kẻ thù, nhưng tiêu diệt lòng thù hận nếu có. (x Ep 2:16). Tiên tri Giêrêmia, người gần Chúa Kitô chịu thương khó nhất trong số các tiên tri, đã cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: "xin cho tôi thấy được cơn thịnh nộ đổ trên đầu chúng" (Gr 11:20); Chúa Giêsu khi hấp hối nói rằng "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 23:34).

Chính lòng thương xót này và khả năng tha thứ là điều chúng ta cần đến ngày nay để tránh đừng trượt xa hơn nữa vào hố sâu bạo lực toàn cầu. Thánh Tông Đồ Phaolô viết cho dân thành Côlôsê "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Cl 3:12-13).

Có lòng thương xót nghĩa là động lòng trắc ẩn (misereor) trong lòng (cordis) đối với kẻ thù ta, để hiểu căn cơ những gì tất cả chúng ta đã gây ra và từ đó mà tha thứ cho nhau. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bằng một phép lạ lịch sử nào đó mà hai dân tộc Cận Đông đang chiến tranh với nhau hàng thập niên, nay thay vì đổ lỗi cho nhau, bắt đầu nghĩ đến những đau thương của kẻ khác, và động lòng trắc ẩn với nhau. Bức tường chia cách giữa họ không còn cần thiết nữa. Điều này cũng phải được đề cập đến đối với bao nhiêu những cuộc xung đột đang tiếp diễn trên thế giới bao gồm cả những xung đột giữa các tôn giáo và các hệ phái Kitô Giáo.

Những vần thơ của Pascoli thật đúng biết bao: "Loài người ơi, trong trái đất kiệt quệ này hòa bình là một mầu nhiệm cao cả dường nào"[10]. Một số phận chết chóc chung bao trùm tất cả. Nhân loại bị chôn vùi trong trong bóng đêm mịt mù và oằn oại dưới quá nhiều đau khổ đến mức chúng ta cần phải có lòng trắc ẩn và liên đới với nhau.

5. Nghĩa vụ yêu thương

Có một giáo huấn nữa cho chúng ta đến từ tình yêu Thiên Chúa đã thể hiện trên thập giá Chúa Kitô. Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người thật trung tín và trường cữu, lời Thiên Chúa nói cùng con người qua các tiên tri: "Ta hằng yêu con với một tình yêu vĩnh hằng" (Gr 31:3); và lần khác: "Ta quyết không hề bội tín thất trung" (Tv 89:34). Thiên Chúa đã buộc Ngài vào một tình yêu muôn thuở; Ngài tự tước đoạt tự do thối lui của Ngài. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô đã trở nên "mới mẻ và vĩnh hằng".

Những câu hỏi thường được nêu ra trong xã hội chúng ta ngày nay là mối quan hệ giữa tình yêu của hai người trẻ và luật hôn nhân; tình yêu cần đến điều gì; những gì là hấp tấp và tự phát mà cần phải "buộc" lại. Từ đó nảy sinh ra con số đông đảo hơn bao giờ những người từ chối định chế hôn nhân và chọn cái gọi là tình yêu tự do, hay đơn giản hơn, de-facto, sống chung không ràng buộc.

Chỉ khi nào người ta nhận ra quan hệ sâu sắc và thiết yếu tồn tại giữa lề luật và tình yêu, giữa quyết định và cơ chế, người ta mới có thể đáp trả thích đáng cho những câu hỏi này và mang đến cho những người trẻ một lý do thuyết phục để bị "buộc" vào trong tình yêu muôn thuở và không ngại biến tình yêu thành một "nghĩa vụ".

Một triết gia, người sau Plato, đã viết những điều đẹp nhất về tình yêu, nói: "Chỉ khi nghĩa vụ yêu thương tồn tại, chỉ khi ấy tình yêu mới được bảo đảm lâu dài chống lại mọi đổi thay; được giải thoát mãi mãi trong sự độc lập được chúc phúc; được bảo đảm trong sự thánh thiện vĩnh hằng chống lại bất kỳ âu lo"[11] Ý nghĩa của những lời này là với những người đang yêu, càng yêu bao nhiêu càng lo sợ thảm họa tình yêu vỗ cánh bay xa. Một hiểm nguy không đến từ những người khác nhưng từ chính mình.

Anh ta biết rõ sự kiện là anh ta thay đổi và rằng ngày mai, hỡi ôi, anh ta có thể mệt mỏi và không còn yêu nữa hay muốn thay đổi đối tượng tình yêu của mình. Và, giờ đây, đang lúc còn chìm trong ánh sáng của tình yêu, anh ta thấy rõ cái mất đi mãi mãi sự đổi thay đó sẽ dẫn đến, vì thế anh ta bảo vệ chính mình bằng cách tự "buộc" mình vào tình yêu với sự ràng buộc của bổn phận, và vì thế bỏ neo mãi mãi tình yêu hiện nay của mình.

Ulysses muốn trở lại để thấy lại quê nhà và vợ mình lần nữa, nhưng anh ta phải vượt qua vịnh Sirens nơi có những mỹ nhân ngư quyến rũ với những điệu ca hầu lôi kéo những con thuyền va vào bờ đá. Anh ta đã làm gì? Anh tự cột mình vào cột buồm sau khi nhét kín sáp đầy hai lỗ tai những bạn thuyền. Khi đến vịnh Sirens, bị quyến rũ, anh ta la lên để được nới lỏng ra hầu đến với các nàng tiên cá nhưng các bạn thuyền không nghe thấy anh ta nói gì và như thế anh ta đã có thể thấy lại quê hương, và lại được ôm vào lòng hiền thê cùng con trai của mình.[12] Đó là một huyền thoại, nhưng nó giúp chúng ta hiểu được lý do của hôn nhân "bất khả phân ly", và trên một bình diện khác là những lời tuyên khấn.

Nghĩa vụ yêu thương bảo vệ tình yêu khỏi "âu lo" và giữ nó "được chúc phúc và độc lập" theo nghĩa là nó bảo vệ con người khỏi lo âu không thể yêu mãi mãi. Triết gia này cũng từng nói hãy chỉ cho tôi một người thực sự đang yêu, và anh ta sẽ bảo cho bạn thấy nếu trong tình yêu có sự đối nghịch nào giữa nghĩa vụ và hoan lạc; và ý nghĩ "phải" yêu suốt đời có đem lại sự sợ hãi và đau khổ cho người đang yêu không, hay trái lại đó lại là đỉnh cao của vui mừng và hạnh phúc.

Một ngày trong Tuần Thánh, khi hiện ra cùng Chân Phước Angela thành Foligno, Đức Kitô nói với Chân Phước một lời danh tiếng: "Tình Ta yêu con không phải trò đùa!" [13] Thật vậy, Đức Kitô đã không yêu chúng ta cách giỡn chơi. Có một chiều kích đùa cợt và giỡn chơi trong tình yêu, nhưng chính tình yêu không phải là trò đùa; đó là điều chân thành nhất và gây ra nhiều hệ lụy nhất trong thế giới này; cuộc sống con người tùy thuộc vào nó. Aeschylus so sánh tình yêu với sư tử con nuôi trong nhà "lúc đầu thì ngoan ngoãn và hiền lành còn hơn trẻ con" đến nỗi người ta có thể đùa chơi với nó nhưng một khi khôn lớn, nó có thể giết hại và nhuộm máu ngôi nhà.[14]

Những suy tư này không đủ để thay đổi nền văn hóa tôn thờ tự do đổi thay và sự bồng bột nhất thời, khi cái thói "xài xong rồi bỏ" được áp dụng ngay cả trong tình yêu. (Cuộc đời, chẳng may, sẽ hành xử như thế nếu cuối cùng chúng ta thấy mình trắng tay với nỗi buồn chẳng xây đắp được gì lâu dài với tình yêu). Nhưng điều này ít nhất cũng giúp khẳng định sự tốt lành và vẻ đẹp trong lựa chọn của những ai quyết định sống tình yêu giữa một người nam và một người nữ theo kế hoạch của Thiên Chúa, và giúp lôi kéo nhiều người trẻ đạt đến cùng một lựa chọn như thế.

Không còn gì nói thêm ngoài việc hòa nhịp cùng Thánh Phaolô trong bài thánh ca ca ngợi tình yêu chiến thắng của Thiên Chúa. Thánh nhân mời gọi chúng ta cùng với ngài đạt đến một kinh nghiệm chữa lành nội tâm. Thánh nhân nghĩ đến những điều tiêu cực và những lúc gay go của đời ngài: gian truân, phiền muộn, bách hại, đói khát, trần truồng, nguy hiểm và gươm giáo. Ngài suy tư về những điều này trong ánh sáng của xác tín về tình yêu của Thiên Chúa và la lên: "Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta!".

Hãy hướng mắt nhìn lên; từ cuộc sống cá nhân mình nhìn ra thế giới chung quanh và đích điểm của nhân loại trên hoàn cầu, và lần nữa chúng ta reo lên với cùng một niềm xác tín hân hoan: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta." (Rm 8:37-39).

Chúng ta lặp lại lời mời gọi này của thánh nhân, trong ngày Thứ Sáu Thương Khó này, và chúng ta lặp lại những lời ngài bảo chúng ta trong khi chúng ta tôn vinh thánh giá Chúa Kitô.

* * *

[1] H. Bloom, trong lời phi lộ kèm theo ấn bản M. Meyer's edition, The Gospel of Thomas, Harper, San Francisco, s.d., p. 125.

[2] R. Brown, The Death of the Messiah, II, New York, 1998, pp. 1092-1096

[3] x logion 114 in The Gospel of Thomas, ed, Mayer, p. 63); trong ngụy thư của người Ai Cập, Chúa Giêsu nói: "Ta phải hủy diệt công việc của những người phụ nữ" (x. Clemens of Al., Stromata, III, 63). Điều này giải thích tại sao Phúc Âm Thánh Tôma trở thành phúc âm của người theo phái Manichea, trong khi nó bị tấn công dữ dội nởi các tác giả Giáo Hội (chẳng hạn, bởi Hippolytus thành Rôma), người bảo vệ sự tốt lành của hôn nhân và tạo dựng nói chung

[4] Paradiso, V, 73-80.

[5] Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI. "Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu" 12.

[6] X. N. Cabasilas, Đời sống trong Chúa Kitô, VI, 2 (PG 150, 645).

[7] X. Origen, Những bài suy niệm về tiên tri Ezekiel, 6,6 (GCS, 1925, p. 384 f).

[8] X. B. Pascal, "Pensées," 793, ed. Brunschvicg.

[9] Henryk Sienkiewicz, Quo Vadis, chapt. 33.

[10] Giovanni Pascoli, "I due fanciulli."

[11] S. Kierkegaard, Những hành vi yêu thương, I, 2, 40, ed. bởi C. Fabro, Milan, 1983, p. 177 ff.

[12] X. Odyssey, XII.

[13] Hạnh tích Chân Phước Angela Thành Foligno, Instructio 23 (ed.
Quaracchi, Grottaferrata, 1985, p. 612).

[14] Aeschylus, Agamemnon, vv. 717 ff.
J.B. Đặng Minh An dịch


MỘT SỰ KIỆN VĨ ĐẠI ĐẾN VỚI THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI









GIỚI THIỆU VỀ ĐỨC MẸ MỄ DU
TẠI LÀNG MEDJUGORJE NƯỚC NAM TƯ:
MỘT SỰ KIỆN VĨ ĐẠI ĐẾN VỚI THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI
LẦN CUỐI ĐỨC MẸ HIỆN RA LIÊN TỤC TỪ 24/6/81 ĐẾN NAY



I- ĐỨC MẸ ĐẾN VỚI LOÀI NGƯỜI TỘI LỔI:

Trái đất bệnh hoạn, đạo đức loài người hầu như suy sụp hoàn toàn. Loài người đã từ chối Thiên Chúa, nên đã đi đến chổ sa đọa ghê gớm. Sự trừng phạt của Thiên Chúa không còn xa.

Ôi ! làm sao tả nổi lòng thương yêu loài người của Đấng Tạo Hóa Toàn năng: Người dựng nên loài thông minh, tự do và trách nhiệm để thử thách. Cho sống một cuộc đời thữ thách ngắn ngủi trên quả địa cầu đễ loài người xứng đáng một vinh dự thần thánh hạnh phúc vĩnh cữu trên Thiên Đàng.

Nói nghe như chuyện tiếu lâm, khó tin quá. Đã có Nát Bàn, có Suối Vàng, có Nước Trời lai thêm Thiên Đàng thì có lấy gì mà tin trước một thế giới văn minh hiện đại. Nhưng có cái văn minh nào giúp con người có hạnh phúc thật lâu dài, hạnh phúc vĩnh cữu chăng ? Loài người tưỡng với van8n minh khoa học ngày nay, với giàu sang, công danh, sự nghiệp, tình yêu trai gái là họ có đủ đễ tạo hạnh phúc. Tất cả đều huyễn hoặc.

Trước khi Thiên Chúa hạ mình giáng thế làm người +++++++++++++

Nên loài người đã dại dột ngu dại mà xua, đại đa số nghe theo lời mê hoạt mạnh mẽ táo tợn của Satan, đến nổi chúng đã biến bộ mặt của hành tinh thành xấu xa dơ bẩn.

Loài người đã suy sụp trong đam mê tiền tài, danh vọng, hoan lạc xác thịt. Đến cả tuổi thơ ngây tươi sáng, cả những kẻ đã chọn con dường hiến dâng, cũng đắm mình trong thú vui dâm ô, dục vọng, tiền tài danh vọng. Trong thử thách nhân loại, Thiên Chúa để cho Satan tự do chiếm đoạt, hoạt động trên loài người. Trong giai đoạn cuối cùng nầy, Satan đã hoạt đông ráo riết và nó đã thắng đậm. Do lòng ganh tị với với lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với loài người, nó đã ra sức dùng mọi chước lôi kéo con người theo nó vào hỏa ngục.

Satan đã có thể làm hỏng phần lớn ‘chương trình Tạo dựng, Tình yêu và Cứu chuộc’ của Thiên Chúa đối với  loài người, vì Thiên Chúa đã ban cho loài người tự do tin Thiên Chúa hay không, tự do theo Satan hay không và tự do chịu mọi trách nhiệm và hậu quả.

Satan đã thành công làm cho loài người phải đứng trước cơn thịnh nộ bốc cháy gần kề của Thiên Chúa. Án phạt gần kề, thời gian quá khẩn trương, nhưng con người vẩn ù lì trong tăm tối tội lổi, không biết ăn năn hối lổi, trở lại với Thiên Chúa.      

Nhưng Thiên Chúa không ngừng chứng tỏ Tình Yêu do lời cầu xin của Đức Nữ Đồng Trinh: Đức Mẹ chỉ một lần cấp bách cuối cùng nầy thôi, nên Người kéo dài lần cuối cùng. Chúa Giêsu đã chấp nhận để Mẹ Thánh xuống trần dạy bảo các con của Mẹ lần cuối cùng. Đức Mẹ Maria đã hiện ra tại Medjugorjie mà chúng ta gọi là Đức Mẹ Mễ Du.

Đức Mẹ đã xưng “Ta là Đức Nữ Trinh hồng phúc” “Mẹ đến đây vì Mẹ thấy ở đây có nhiều người có lòng Tin chân thật” “Mẹ không nhất thiết phải chọn người tốt nhất”, không phải một vài lần mà liên tục từ ngày 24-06-1981 đến nay và không biết đến bao giờ mới kết thúc. Vì là lần cuối cùng, nên Đức Mẹ không nở rời các con Mẹ khi Mẹ thấy án phạt gần kế, khẩn trương mà loài người vẩn xua đuổi Thiên Chúa để đắm mình trong tôi lổi. Ôi ! chính Đức Mẹ là người cộng tác với Chúa Giêsu để cứu cuộc loài người, và như vậy Mẹ đã hành dộng suốt trên 2000 năm nay.

Không bao giờ với văn chương triết lý, lập luận cao xa, nhung Đức Mẹ luôn với những lời lẻ đơn sơ, với những phương thức dễ dàng, những lời nói khẩn thiết lập lại lời dạy dổ của Chúa Giêsu trong Thánh Kinh, vì loài người đã không đọc và thi hành Lời Chúa.

Đức Mẹ còn cho loài người biết Thiên Chúa là có thật, hạnh phúc vĩnh cữu Thiên Đàng cho những ai ăn năn hối cải và tin vào Thiên Chúa là có thật; và án phạt đời đời trong Hỏa ngục đối với ai từ chối Thiên Chúa để đắm mình trong tội lổi là có thật.

Để loài người được ơn tha thứ và cứu rổi, Đức Mẹ đã khóc lóc, tha thiết, năn nỉ nhân loại thi hành những sự việc nhỏ nhoi dễ dàng để đổi lấy sự tha thứ và cứu rổi của đa số nhân loại. Sau đây là những điều Đức Mẹ giáo hóa loài người:

. Hãy hối cải tội lổi, hãy rời bỏ cuộc sống xấu xa, tồi tệ và dơ bẩn.
. Hãy Tin Vào Thiên chúa Toàn Năng là Có Thật.
. Hãy cầu nguyện và cầu nguyện để được ơn cải hối và đức tin vào Thiên Chúa.
. Hãy ăn chay thật tình, chay lòng với bánh mì (cơm) và nước lã.
. Hãy hòa giải với Thiên Chúa, điều kiện để hòa giải giữa nhân loại với nhau.

Đối với những người có đã có đức tin vào Thiên Chúa, đã chịu phép Thánh tẩy, Đức Mẹ đòi hỏi cộng tác với Đức Mẹ khấn cấp bách bằng cách thi hành kế hoạch 5 điểm là điều kiện tối thiểu để giúp loài người trở lại với Thiên Chúa, vì Satan đang ra dùng hết sức mạnh cuối cùng của nó để chiến thắng. Hiện nó vô cùng mạnh mẽ để lôi kéo loài người vào hỏa ngục trong trận chiến cuối cùng với loài người, và với Thiên Chúa để dành loài người vào Hỏa ngục với Nó, để phá Tình Yêu và sự Cứu Độ của Thiên Chúa đối với loài người .

Với tình thương tha thiết của một Bà Mẹ chính thật hơn là mẹ sinh ra ta, Đức Mẹ Maria ban cho chúng ta những khí giới để thắng Satan, như điều kiện ‘bấm nút trên máy tính’ hoặc như ‘những câu phù chú đơn giản’ có uy quyền đè bẹp sức mạnh satan và hạ cánh tay Chúa Giêsu trước án phạt gần kề, rất gần kề, để được ơn trở lại với Thiên Chúa và ơn tha thứ. Mẹ đòi hỏi chúng ta xử dụng các khí giới của Mẹ với trái tim, chứ không vì lấy lệ, vì thói quen. Từ những lần hiện ra đầu tiên, Đức Mẹ đưa ra sứ điệp khí giới chiến thắng dựa theo Phúc Âm Chúa Giêsu. Vì ngoài khí giới của Mẹ Maria không có khí giới nào trên trái đất khuất phục được Satan:

1-      Khí giới 1: Phải cầu nguyện và cầu nguyện. Cầu nguyện không phải là đọc kinh thuộc lòng lấy lệ hay vì thói quen. Nếu cần, đọc kinh phải để hết tâm tình. Đức Mẹ dạy ‘nói chuyện thật tâm tình’ với Chúa Giêsu, nói chuyện với trái tim.

2-      Khí giới thứ 2: Phải ăn chay: Đức Mẹ dạy ăn chay mổi tuần 2 lần, và chỉ ăn it bánh mì với nước lã (ai nghe mà không phát khiếp.)


3-      Khí giới thứ 3: Phải tôn kính và đọc Kinh Thánh là sách mả tác giả là Thiên Chúa mổi ngày một ít. Và phải thực thi những điều Chúa dạy qua sác Phúc Âm.

4-      Khí giới thứ 4: Phải Hòa giải với Thiên Chúa bằng phép Giải tội. Và hòa giải với anh chị em bằng sự tha thứ.

5-      Khí giới thứ 5: Phải hiệp dâng Thánh Lễ. Phải ăn Mình Thánh Chúa Giêsu. Phải tôn thờ và chạy đến cùng Đức Chúa Thánh Thần. Phải tôn sùng và tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria, dây là điều kiện của Chúa Giêsu con Mẹ.   



Đức Mẹ đã hiện ra tại Mể Du mổi chiều, từ ngày 24-6-1981 đến nay, đem sứ điệp, thông điệp dạy bảo loài người đến cho 6 trẻ liên tục mổi chiều trong 27 năm nay. Mẹ đã dạy cho các con dưới trần thế giáo lý của Thiên Chúa và đưa ra những thông điệp cần phải thi hành cấp kỳ kế hoạch của Mẹ như thế nào để cứu loài người, tện lắm là những người đã có Đức tin vào Con Mẹ, vì ngày giờ quá cấp bách, phải ăn năn hối lổi, phải quay trở lại với Thiên Chúa vì đã đến giai đoạn cuối cùng. Án phạt của Thiên Chúa đổ xuống trên đầu người đã quá gần kề, không còn thì giờ chở đợi được nữa. Quá khẩn trương rồi ! nên Đức Mẹ vẩn còn ở lại với loài người.

Đức Mẹ đã cho chúng ta biết, Thiên Chúa là có thật, Thiên đàng là có thật, lửa luyện tội là có thật, hỏa ngục là có thật, án phát của Chúa Giêsu không còn xa, đã quá gần kề. Mẹ còn cho biết Tiểu Sử Cuộc Đời Dương Thế Của Mẹ, sẽ được xuất bản khi Mẹ cho phép. Mẹ còn cho các em biết 10 điều bí mật về Giáo Hội và về Thế Giới, nhưng hiện còn giữ kín, khi Đức Mẹ cho phép chúng ta sẽ biết. Tôi nghĩ trong 10 điều bí mật của Đức Mẹ, thế nào cũng có sự liên can đến “Tiếng Loa Cảnh Báo số 9 của LS Truong Tiến Đạt” (xin mời đọc)

Đức Maria xin chúng ta hãy cộng tác trong ‘chương trình của Mẹ bằng cách rao truyền sự kiện vĩ đại là Đức Mẹ hiện ra liên tục tại Mễ Du để loài người tin vào Thiên Chúa’. Ôi ! Thiên Chúa đã thương yêu loài người vô vàn đến độ dùng trái tim của Mẹ Người đến giáo hóa bầy con Mẹ.   

II- CÂU TRUYỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA:


Còn tiếp

Gs.Bs. Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh



Caritas Việt Nam




Caritas Việt Nam


Danh xưng ''Caritas Việt Nam'' có nghĩa là “Bác ái Việt Nam” được sử dụng và hoạt động tại Việt Nam

VietCatholic News (Thứ Ba 29/07/2008 12:36)

SAIGÒN - Theo văn thư số #23/2008/VT/BAXH, do Đức Cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, chủ tịch Ủy Ban Bác Ái Xã Hội trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ký ngày 21-07-2008, gửi tới các giáo phận và toàn thể Cộng đồng Dân Chúa, cho biết những tin tức như sau:

Uỷ Ban Bác ái Xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam (UBBAXH/HĐGMVN) đã nhận được Công văn số 941/TGCP-CP của Ban Tôn Giáo Chính Phủ đề ngày 02-07-2008 cho phép UBBAXH/HĐGMVN được sử dụng tên Caritas Việt Nam và cho Caritas Việt Nam hoà nhập vào mạng Caritas Internationalis (Caritas Quốc Tế) cũng như các Caritas giáo phận được thành lập tại 26 giáo phận trên toàn quốc.

Chúng tôi xin tóm tắt đôi điều về tổ chức này:

1. Nhận thức

Tên Caritas, nguyên ngữ La tinh, có nghĩa là bác ái, yêu thương cách quảng đại, hoạt động từ thiện. Việc liên đới với người nghèo và dấn thân phục vụ họ theo giáo huấn và gương sống của Đức Giêsu là một đòi hỏi của bác ái Kitô giáo đồng thời là sứ mệnh căn bản của Giáo hội. Giáo hội khuyến khích thành lập tổ chức Caritas trong tất cả các nước ở mọi châu lục. Caritas Internationalis (Caritas Quốc Tế) được thành lập năm 1951 và hiện nay có 162 tổ chức thành viên. Trụ sở đặt tại Piazza San Calisto 16, 00153, Roma, Italy.

2. Vài hàng lịch sử

Caritas Việt Nam được Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam (HĐGM VN) thành lập vào năm 1965 ở Trung Ương và năm 1966 được thành lập tại các giáo phận. Tên của mỗi giáo phận được đặt sau tên Caritas để gọi, thí dụ như: Caritas Sài Gòn, Caritas Xuân Lộc, Caritas Huế… Mỗi Caritas giáo phận có văn phòng và hoạt động theo chương trình chung của Caritas Việt Nam đề ra cho những hoạt động bác ái xã hội như giúp đỡ các nạn nhân thiên tai, các người nghèo khổ tàn tật… Đến tháng 6 năm 1976, Caritas Việt Nam được lệnh Nhà nước tạm ngưng hoạt động.

Sau khi UBBAXHVN được thành lập ngày 19-9-2001 trong đại hội 8 của HĐGMVN, Uỷ Ban đã chính thức xin phép Nhà nước lập lại Caritas Việt Nam với cơ cấu tổ chức từ giáo phận đến các giáo xứ cho phù hợp với các hoạt động bác ái xã hội trên toàn cầu.

3. Mục đích

Caritas Việt Nam có mục đích giúp HĐGMVN thực hiện các hoạt động bác ái xã hội với đường hướng sau đây:

1. Thăng tiến và phát triển con người toàn diện
2. Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc
3. Phát huy tình yêu thương bác ái, liên đới giữa mọi người trong xã hội
4. Giúp đỡ khẩn cấp khi có thiên tai hay dịch bệnh

4. Tôn chỉ

1. Bảo vệ nhân phẩm: sự sống con người nhất là người nghèo khổ, yếu kém trong xã hội.
2. Dấn thân hoạt động để xây dựng xã hội trong công lý và hoà bình
3. Cổ vũ tình liên đới để phát triển các mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong gia đình nhân loại.
4. Bảo vệ môi trường sống trong sạch, lành mạnh

5. Nhiệm vụ

- Caritas Việt Nam có nhiệm vụ giúp HĐGMVN để thực hiện các công tác bác ái xã hội theo các mục đích và tôn chỉ trên.
- Hợp tác với các tổ chức từ thiện xã hội trong cũng như ngoài nước, để thực hiện các hoạt động bác ái xã hội.
- Phối hợp và tổ chức các hoạt động bác ái xã hội cùng với Caritas của các giáo phận để thực hiện các chương trình và dự án theo kế hoạch đề ra.

6. Hoạt động

Caritas Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc đạo đức Kitô giáo và giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo.

Caritas Việt Nam hoạt động theo nhu cầu. Caritas Việt Nam là một tổ chức tự nguyện đảm nhận các công tác xã hội. Caritas Việt Nam cứu trợ những người nghèo khổ, tật bệnh hay gặp hoàn cảnh khốn cùng, không phân biệt tôn giáo, quốc gia, chủng tộc, chính trị.

Caritas Việt Nam là một tổ chức từ thiện chuyên nghiệp. Việc quản trị phải chặt chẽ, trong sáng, minh bạch, công khai và có hiệu quả cao.

Caritas Việt Nam hoạt động dựa trên sự cộng tác. Caritas Việt Nam tôn trọng sự dấn thân khác nhau và độc lập của các giáo phận, giáo xứ, hiệp hội, cá nhân và các đoàn thể tương trợ. Caritas Việt Nam luôn sát cánh với các cơ quan từ thiện khác.

7. Tổ chức

Caritas Việt Nam gồm Ban Thường Trực ở Trung ương và các Caritas tại 26 giáo phận trên toàn quốc.

- Ban Thường Trực ở Trung ương gồm:
+ Chủ tịch
+ Tổng thư ký
+ Phó tổng thư ký
+ Thư ký thường trực
+ Các chuyên viên của các phòng ban

- Caritas ở giáo phận gồm: 1 Chủ tịch và các thư ký trong các văn phòng trực thuộc.

Trong Đại hội X của HĐGMVN tổ chức tại Hà Nội từ ngày 08-10 đến ngày 12-10-2007, HĐGMVN đã bầu ra vị Chủ tịch mới của UBBAXH-Caritas Việt Nam là Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh cho nhiệm kỳ 2007-2010 và vị Tổng Thư ký được Đức Cha Chủ tịch chỉ định là linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn.

Vậy chúng tôi gửi thư này đến toàn thể Cộng đồng Dân Chúa để thiết tha mời gọi Quý cha, Quý tu sĩ và anh chị em tín hữu tham gia vào các hoạt động bác ái của Caritas Việt Nam. Chúng tôi hy vọng rằng với việc thực thi tình yêu quảng đại của Chúa Kitô cho mọi người nhất là cho những người nghèo khổ, bệnh tật, già yếu, mồ côi, goá bụa, các nạn nhân xã hội như: người nghiện ma tuý, nhiễm HIV/AIDS, mại dâm, phá thai… chúng ta sẽ mang lại niềm vui, bình an, hạnh phúc cho dân tộc và nhân loại.

Kính chúc anh chị em luôn an mạnh và dồi dào ơn Chúa.

Xin tất cả anh chị em cùng cầu nguyện cho chúng tôi để hoàn thành trách nhiệm trong công việc, thúc đẩy tình bác ái của Chúa Kitô nơi mọi người.

Kính thư,

Giám mục, Đa Minh Nguyễn Chu Trinh
Chủ tịch UBBAXH/CARITASVN


Theo giấy phép của UB Tôn Giáo Chính Phủ do Ông Nguyễn Thế Doanh ký ngày 2-7-2008, trong đó nói chấp nhận đề nghị "về việc sử dụng tên Caritas Việt Nam"...
Thế nhưng trong văn thư nêu trên cũng cho biết "Tuy nhiên, hiện chưa có qui định Nhà nước về việc cho tổ chức phi chính phủ nước ngoài hay mạng lưới các tổ chức phi chính phủ nước nogài lập chi nhánh hay tổ chức của mình ở việt nam, nên không đặt vấn đề thành lập chi nhánh Caritas quốc tế tại Việt Nam".
VietCatholic


Ý nghĩa chữ «Tình Yêu» được nhìn dưới góc độ Kitô giáo






Ý nghĩa chữ «Tình Yêu» được

nhìn dưới góc độ Kitô giáo


( Nguyễn Hữu Thy)


Có lẽ người ta đã không sai khi gọi Kinh Thánh là «lá thư tình», hay «những lời tỏ tình» của Thiên Chúa với con cái loài người. Nhưng như ĐTC Bênêđíctô XVI đã viết trong Thông điệp đầu tay của ngài «Thiên Chúa là tình yêu» (Deus caritas est): «Ngày nay thuật ngữ tình yêu đã trở thành một trong những từ được dùng cũng như bị lạm dụng thường xuyên nhất, một từ chúng ta gán cho nhiều nghĩa hoàn toàn khác nhau» (số 2).

Thật vậy, trong cuộc sống đời thường, đặc biệt khi đắm đuối «phải lòng» một ý trung nhân khác phái nào đó, người ta thường dễ dàng thổ lộ cảm xúc của mình một cách tùy tiện, hầu như vô thức: «Anh yêu em» hay «em yêu anh», chứ đương sự chưa hẳn đã thật lòng yêu đối tượng của mình một cách thực sự, nghĩa là chưa hẳn đã ý thức được rõ ràng đầy đủ ý nghĩa của lời mình phát biểu. Nói cách khác, tiếng «yêu» được những người liên hệ thốt ra trong trường hợp này mới chỉ là phản ứng bộc phát do những cảm xúc rạo rực thuộc lãnh vực giác quan tác động, chứ chưa có sự can thiệp đầy đủ của lý trí. Ví dụ mối tình giữa anh Sam-sôn người Do-thái và cô Đa-li-la người Phi-li-tinh, mà Kinh Thánh đã tường thuật lại trong Sách Thủ Lãnh (16,4-31). Vì thế, ngay từ ban đầu khi quan hệ «tình yêu» giữa hai người dị chủng và bất đồng tôn giáo này vừa chớm nở đã chuốc lấy sự đổ vỡ đau xót thê lương. 

Vâng, tình yêu của Sam-sôn đối với Đa-li-la chưa vượt qua được biên giới của những cảm xúc đắm đuối, của tiếng sét ái tình: Sâm-sôn mê đắm cô gái Phi-li-tinh là hoàn toàn do sự đòi hỏi tự nhiên của bản năng nam giới thúc đẩy. Đối với Sam-sôn, người anh hùng có sức mạnh phi thường, mối quan hệ của anh ta với Đa-li-la chỉ là một chuyện tình cảm qua đường như những chuyện tình cảm anh đã từng có với bao thiếu nữ khác trước đó mà thôi. Nhưng lần này lại khác hẳn, người đẹp Đa-li-la lại thông minh và quỷ quyệt hơn những người đẹp trước kia của anh rất nhiều. 

Được những vị vương hầu đồng hương hứa thưởng cho nhiều tiền bạc nếu như cô ta tìm ra được sự thật về bí mật tại sao Sam-sôn lại có được sức mạnh phi thường như thế – tức dấu ấn sự gắn bó chặt chẽ của anh với Chúa Gia-vê (x. Tl 13,5) – Đa-li-la liền sử dụng món khí giới «mỹ nhân kế» vô giá sẵn có của nàng để đạt mục đích. Thoạt đầu, cả Sam-sôn và Đa-li-la đều dối nhau chứ không nói sự thật về mình. Để ép Sam-sôn nói ra sự thật và nhờ thế thế cô sẽ đạt được mục đích nhanh chóng hơn, Đa-li-la đã ra vẻ hờn trách Sam-sôn: «Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật lòng với em?» (Tl 16,15), vì nàng đã dư biết tình yêu chân thật không chỉ dừng lại nơi một lời nói suông, nhưng đòi hỏi toàn diện con người của đối tượng. Và đó chính là khởi đầu bi kịch khủng khiếp cho một Sam-sôn si tình.

Tình yêu Kitô giáo thì vô biên giới, chứ không «chỉ» yêu mà thôi

Người ta sẽ hiểu rõ được ý nghĩa sâu xa của những gì được gói ghém trong chữ «tình yêu» khi được nhìn dưới góc độ Kinh Thánh và Kitô giáo, nếu người ta tìm hiểu được những ý niệm trong các cổ ngữ và trong những dịch thuật Kinh Thánh thời xa xưa. Bắt đầu từ bản dịch Tân Ước theo tiếng Hy Lạp người ta đã ghi nhận được rằng chữ «tình yêu» luôn được dịch là «Agape» (tình bác ái), chứ không phải «Eros» (ái tình). 

Trong thông điệp «Deus Caritas est» - Thiên Chúa là tình yêu, ĐTC Bênêđíctô XVI đã viết: «Khuynh hướng tránh sử dụng từ Eros và quan điểm mới về tình yêu được biểu lộ qua từ Agape như vậy, chắc chắn nói lên một điều gì trọng yếu về tính chất mới mẽ của Kitô giáo khi hiểu về tình yêu» (số 3). Cả trong bản Kinh Thánh bằng tiếng La-tinh, quan điểm mới này về tình yêu Kitô giáo cũng đã tiếp tục sử dụng những ý niệm mới. Không phải những từ quen thuộc mà người ta thường đọc trong các văn bản bằng tiếng La-tinh – Amor và amare (= Eros) – đã được sử dụng để trình bày Sứ Điệp Tình Yêu của Thiên Chúa do Đức Giêsu, Con Một của Người mang đến cho nhân loại, nhưng là những ý niệm ít được người đời quan tâm và sử dụng, đó là: «Caritas»«diligere». Chính những từ Caritasdiligere đã được thánh Hieronymus (357-430) sử dụng khi dịch thuật bản Kinh Thánh Vulgata và rồi được Công đồng Trienter năm 1546 chính thức chấp thuận; tiếp đến, ĐGH Damascus I đã cho ban hành sử dụng bản Vulgata như bản Kinh Thánh chính thức của Giáo Hội Công Giáo La-tinh vào trong chương trình Phụng vụ, trong các Giờ Kinh mãi cho tới ngày nay.

Tình yêu Kitô giáo không phải là Amor

Trong thế giới Rôma ngoại giáo xưa kia, từ «Amor» (tiếng Hy Lạp là Eros = ái tình) cùng với từ đệm của nó là «Cupido» (sự thèm khát dục vọng) thuộc về những vị thần linh của sự hỗn độn thủa ban đầu vũ trụ. Ngoài ra còn có con trai của nữ thần Venus (nữ thần tình yêu và sự sinh sản) và của thần Mars (thần chiến tranh) – mà trong thời cổ xưa người ta đã trình bày bằng mũi tên và chiếc cung – được coi như là biểu tượng cho tình yêu xác thịt. Một khi bị mũi tên của Amor bắt đúng, cũng có nghĩa là con người bị sự thèm khát và đam mê dục vọng của mình sai khiến, con người trở thành tên nô lệ vô điều kiện cho chính mình.

Bởi vậy, theo nguyên tắc, từ «Amor»«amare» hoàn toàn bất khả sử dụng trong việc diễn tả ý nghĩa chân chính và cao cả của từ «tình yêu» theo đúng quan điểm Kitô giáo. Mặc dù trong các ngôn ngữ có nguồn gốc La-tinh(1), từ «Amor» cùng với nội dung mang khuynh hướng «Eros» của nó vẫn được sử dụng trong các giao tiếp thường ngày.

Tiếp đến, khác hẳn với «diligere», động từ «amare» - rất họa hiếm được các nhà dịch thuật bản Tân Ước sử dụng – có nghĩa (theo Kinh Thánh) là tình yêu thèm khát mang khuynh hướng thể xác giữa người nam và người nữ(2), nhưng cũng có nghĩa là tình yêu máu mủ ruột thịt(3). Đó cũng là trường hợp cụ thể được Đức Giêsu nhắc tới trong Phúc Âm theo thánh Mát-thêu khi Người nói: «Ai yêu (amat) cha hay mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu (amát) con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (10,37). Vậy, qua việc sử dụng từ «amare» trong trường hợp này, muốn nói lên rằng, theo Đức Giêsu: Ai thực sự yêu Người, thì phải yêu bằng một cách thức khác với cách thức họ yêu cha hay mẹ hoặc con cái mình. Như thế tình yêu đối với Đức Kitô là tình yêu siêu nhiên và phải hoàn toàn vượt lên khỏi mọi biên giới của tình yêu thuần tuý máu mủ vốn đã được Tạo Hóa phú bẩm vào trong bản chất tự nhiên của mỗi người. Vì thế, để trình bày nội dung cao cả và mới mẻ này của tình yêu Kitô giáo, bản Kinh Thánh bằng tiếng La-tinh đã sử dụng từ «Caritas»«diligere».

Tình yêu Kitô giáo là Caritas

Từ «Caritas» trong bản Vulgata(4) đóng một vai trò rất đặc biệt trong Giáo Hội cũng như trong thế giới(5). Vâng, từ «Caritas» mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người - bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa(6).

Từ «Caritas» có gốc từ tĩnh từ «carus» và có nghĩa là đáng yêu hay đắt đỏ. Theo nghĩa Kinh Thánh, từ «Caritas» muốn nói lên một phẩm tính cơ bản của con người được gắn liền với tư tưởng về sự quý báu, đầy giá trị, độc nhất vô nhị. Trong Thư I gửi Corinthô, thánh Tông đồ Phaolô đã xướng lên bản tình ca về đức ái Kitô giáo như sau:

«Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có đức mến (Caritas) thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. 

Giả như tôi có được ơn nói tiên tri và biết hết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả tài đức đến chuyển núi rời non, mà không có đức mến (Caritas), thì tôi cũng chẳng là gì cả.

Giả như tôi có đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu chết, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.

Đức mến (Caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến (Caritas) không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến (Caritas), cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến (Caritas)»
(1Cr 13,1-13).

Yêu thương nhau như Đức Giêsu đã thương yêu chúng ta

Nếu khi trình bày tình yêu Kitô giáo, người ta không thể sử dụng động từ «amare» với những lý do như đã nói trên, thì trong tiếng La-tinh không có động từ nào khác thích hợp hơn là động từ «diligere». Trong động từ «diligere» này (bao gồm cả ý nghĩa «dis-legere»: để cách ra, phân chia, chọn lựa) không chỉ nảy sinh ra tư tưởng về một sự chọn lựa và về sự được tuyển chọn, nhưng còn biểu lộ sự tự do. Vì thế, ý nghĩa của động tự «diligere» lại phải được hiểu trong sự tương quan chặt chẽ với động từ «eligere» (tuyển lựa, chọn lọc), như thánh Phaolô viết trong Thư Cô-lô-sê: «Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương» - Electi Dei sancti et dilecti (3,12). 

Vậy, động từ «diligere» là thích hợp nhất để trình bày sự tuyển chọn của ơn thánh Thiên Chúa. Chính trong nghĩa này mà Đức Giêsu đã ban bố mệnh lệnh tình yêu của Người: «Các con hãy thương yêu nhau! Như Thầy đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy thương nhau như vậy!» (Ga 13,34), và: «Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến các con như vậy. Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy!» (Sicut dilexit me Pater et ego dilexi vos! Manete in dilectione mea!). 

Ai muốn hiểu được Thiên Chúa là tình yêu và muốn hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16), thì cần phải thấu triệt được ý niệm về tình yêu. Nhưng ai hiểu rõ được rằng tình yêu không chỉ là một lời nói trống rỗng mà người ta có thể phát biểu một cách dễ dàng tùy tiện, nhưng là Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm trong Đức Giêsu Kitô, thì người đó đã nắm bắt được trọng tâm của đức tin Kitô giáo vậy.

______________
Chú thích:
1. Amor trong tiếng Ý: l’amore; tiếng Pháp: l’amour, v.v…
2. xem Sách Thủ Lãnh 16,4: quan hệ Sam-sôn/Đa-li-la
3. Tình yêu cha mẹ-con cái; tình yêu anh chị em trong gia đình, tình yêu họ hàng thân thích.
4. Tiếng Hy Lạp là Agape, mà ý nghĩa chính của nó - ngoài ý nghĩa trong Kinh Thánh ra - là sự đắt đỏ, sự bội tăng hay lạm phát.
5. Trong tiếng Pháp: Caritas là Charité, tiếng Ý là Caritá, tiếng Tây Nan Nha là Carino.
6. xem 1Ga 4,16: Deus caritas est (Thiên Chúa là tình yêu).

Nguyễn Hữu Thy- Vietcatholic.net

 
     
Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster) 








VŨ HỘI TRINH TIẾT Ở HUÊ KỲ

(Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh)

***

Cha mẹ đẻ con ra vô cùng yêu tâm hồn con, yêu thân thể con biết mấy, lấy gì mà đo cho đặng.  Ẳm bồng, nâng niu “cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa”.  Cha mẹ coi con là tài sản châu báu, hơn cả ngọc ngà kim cương.  Cho đến một ngày kia nếu con mình hiến tế cuộc đời cho Thiên Chúa để phục vụ đồng loại thì đó là một nguồn hân hoan lớn lao cho gia đình.

Một cô gái VN, 26 tuổi đang học lớp Thạc sĩ toán nói với tôi “Cháu có bạn trai người Mỹ, sống với nhau tự nhiên, thoải mái không lo toan hay lo lắng gì cả.  Mà có không thích nhau nữa thì chia tay, kiếm người khác.  Cha mẹ cháu rất đau buồn…. nhưng cũng đành chịu thôi.”

Từ nửa thế kỷ nay, gần như hầu hết các nước trên thế giới, có lẻ phải chừa các nước Ả Rập, tuổi trẻ thanh niên nam nữ, vị thành niên, rồi đến cả trẻ con đang còn học lớp tiểu học đã được loài người chủ trương xóa bỏ luân lý đạo đức, thuần phong mỹ tục để dần dần dẩn đưa chúng vào con đường đam mê tình dục, sống cuộc đời sa đọa, tự nhiên coi đó là một nguồn giải tỏa uẩn ức thần kinh để con người sống tự do thoải mái…..

Người ta đã lầm lẩn làm hại tinh hoa tuổi trẻ nhất là giới nữ, đến nổi đưa tuổi trẻ đến chổ sa đọa thể xác và phá hoại tâm hồn với đam mê, với phá nạo thai, xì ke ma túy, ấu dâm, đĩ điếm, cướp bóc giết chóc, tù tội, tự tử…  Họ tự do đưa con người vào ngõ kẹt không còn biết đến tình yêu hạnh phúc cao quí của hôn nhân gia đình.  

Mấy năm trước đây tại Mỹ có một chàng trai 29 tuổi mới lấy vợ.  Ngày cưới trước mặt hai họ, chàng Rể tuyên bố là chàng còn là trai trinh nguyên.  Mọi người hoan hô và ông bố trân trọng lấy hết tài sản dành dụm của mình là 1.000.000US$ tặng con trai.  Với con trai chữ trinh không chỉ quí ngàn vàng mà còn là cả một tài sản kếch xù, huống gì là con gái! 

Trên thế giới kể cả các nước Á Đông, nơi mà trước kia chữ ‘trinh quí báu’ của con gái là niềm hãnh diện của gia đình xã hội, ngày nay hầu như đến 90% tuổi trẻ tự cho là hãnh diện trắng trợn lăn xã vào cuộc sống tự do đam mê tình dục làm mất hết cả những nét đẹp thể xác và cao sang tâm hồn, từ đó dễ dàng dấn thân vào vòng trụy lạc, đồng tình luyến ái đưa đến nhiều tệ nạn xã hội ấu dâm, hiếp dâm, trẻ em mãi dâm, HIV, đĩ điếm, xì ke ma túy, trộm cướp, giết người, tự tử….

Trước những tệ nạn trầm luân, những khủng khoảng gia đình xã hội tôn giáo, trước tình trạng  xuống dốc đưa của các thế hệ trẻ hầu như đã đưa nhân loại đến chổ hủy diệt tinh thần và thể xác.  Tuy nhiên cũng còn nhiều gia đình đạo đức biết giữ gìn con cái trai cũng như con gái.  Tại Mỹ một số gia đình Công giáo, Tinh lành đã lập một “Vũ Hội Bảo vệ trinh tiết con gái”. 

‘Vũ Hội Trinh Tiết’ được sáng lập vào năm 1998.  Mổi năm họ tổ chức “Vũ hội vinh danh trinh tiết”.  ‘Vũ hội Trinh tiết’ bậc khởi từ ý tưởng rằng những người cha ân cần, thương yêu con gái, có thể giúp con gái họ sống một cuộc đời trinh nguyên và trong sáng cho đến ngày thành hôn đôi lứa.  Và như vậy cuộc sống lứa đôi sẽ có nhiều may mắn hạnh phúc hơn và nhiều may mắn cùng nhau sống đến ngày tóc bạc răng long.

Số người tham gia Vũ Hội đến nay đã lên đến trên 200 người, từ các cô bé gái xinh đẹp từ 4, 5 tuổi cho đến những nữ học sinh, nữ sinh viên đại học cùng cha tới dự một vũ hội ở thành phố Colorado Springs, với lời thề trang trọng trước tượng Thánh Giá là ‘gìn giữ trinh tiết cho tới khi kết hôn’.

Sau đây xin mời quý vị dự một ‘Vũ Hội Trinh Tiết Hoa Kỳ’ qua vài hình ảnh vô cùng xinh đẹp, trắng trong, mỹ miều, tuyệt vời:



1- 
Vũ hội Trinh tiết được tổ chức thường niên. Năm nay có trên 350 gia đình tham gia.
2 - 
Một người cha chụp ảnh cùng hai cô con gái sinh đôi mới 9 tuổi tại vũ hội.

3 -
Các cô bé cùng khiêu vũ. Sau màn khiêu vũ, một nhóm đàn ông xếp thành hai hàng, giơ kiếm tạo thành mái chóp danh dự để cho cha và các cô con gái đi qua.

4 -
Một người cha đặt tay lên vai con gái là sinh viên Y khoa, trong vũ hội, sự kiện có các cô bé lên 4 cho tới những sinh viên đại học tham dự.


5 -
Ông Steve Clark (trái) đọc lời hứa giúp con gái Ashley Avery, 17 tuổi, gìn giữ sự trinh nguyên về tâm hồn, thể xác và trí tuệ.

6 -
Cha và con gái bước vào cửa phòng ăn, cạnh trong phòng khiêu vũ. Vũ Hội thường kéo dài tới nửa đêm, có khi đến 3, 4 giờ sáng.

7 -
Cha và con gái đứng trong phòng khiêu vũ, xây mặt về cây thánh giá, cùng cầu nguyện và đọc lời thề trinh tiết.

8 -
‘Vũ hội Trinh tiết’ bậc khởi từ ý tưởng rằng những người cha ân cần có thể giúp con gái họ sống một cuộc đời "trinh nguyên và trong sáng”.



Họ thật xứng đáng tuyệt vời mặc những tấm áo trắng tượng trưng cho tâm hồn và thân xác trong sạch trinh nguyên.

Đây là tấm gương tuyệt vời cho loài người soi chung.

Gs. Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh MD. Ph.D.














              


Em bé gái Mỹ hát bài "Anh Là Ai" của Việt Khang thật tuyệt vời!






Em bé gái Mỹ hát bài "Anh Là Ai" của Việt Khang thật tuyệt vời!

Mời nghe Em bé gái người Mỹ Jennifer Lynn hát bài Anh Là Ai thật tuyệt vời!

Xin click vào: 






BỮA TIỆC LY


(Gs. Trưng Triệu Nguyễn Thị thanh MD.Ph.D.)


Léonardo và bức họa Bữa Tiệc Ly

Leonardo là một danh nhân về những bức Bích họa CG. Đặc biệt bứu tranh Bữa Tiệc Ly của ông rất nổi tiếng và suốt 5 thế kỷ nay biết bao họa sĩ copy lại bức tranh của ông. Bức họa của ông là tuyệt mỹ tôi không bao giờ có ý phê phán gì.

Tuy nghiên hôm nay ngày thứ Tứ Tuần Thánh 2016, tôi xin có chút ý kiến về Bữa Tiệc Ly về Bức tranh và sau đó là về Tình yêu mầu nhiệm cao cả vĩ đại của Chúa Giêsu đối với chúng ta.

Từ lâu tôi có dịp xem một Phim CG về cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu tại Paris và tôi rất cảm phục về đoạn chiếu Bữa Tiệc Ly trong Phim ấy. Chúa Giêsu và 12 môn đệ dọn Bữa Tiệc cuối cùng trong một tầng hầm cổ xưa của một căn nhà lớn, có nhiều cột, vách có vẻ như làm bằng đất sét và không hề có cửa sổ.

Chúa cùng các môn đồ ngồi dưới đất hình như có trãi một loại chiếu xưa của dân Do Thái. Tất cả đều ngồi hình vòng tròn, Chúa Giêsu ngồi giữa, nếu tôi nhớ không lầm thì hình như Người có một gối cao mấy tầng dựa tay, và các môn đồ cũng vậy. Vòng tròn rộng rãi.

Nguyên tôi có chơi thân với một gia đình láng giềng Ả Rập ở Canada. Một buổi tối tôi đến chơi thì gặp lúc cả nhà 2 vợ chồng và 3 đứa con đang bắt đầu ăn bữa. Bà vợ lấy thêm dĩa năn nỉ mời tôi ăn, tôi từ chối, nhưng vẩn ngồi nói chuyện. Tôi chú ý đến cách thức ăn uống của họ. Ăn bốc bằng tay, hôm ấy món ăn là cà ri thịt gà ăn với bánh mì. Ông chồng vừa ăn vừa nói chuyện với tôi. Tay phải của ông xé một miếng bánh mì vừa phải, cầm miếng bánh đưa vào dĩa cà ri, vửa kẹp một miếng thịt gà vừa chấm nước vửa phải và đưa vào miệng thất gọn gàng bằng cách dùng ngón tay cái dẩy bánh vào miệnh chứ không phải hả miệng ra rồi đút bánh vào (giống chúng ta lấy đủa và cơn vậy).

Nhân đây tôi cũng xin nói dân Hán Mông cổ du mục thời xưa cũng ăn tay. Chỉ có dân Bách Việt là tổ tiên của Việt Nam là xứ mọc nhiều tre mới sinh ra ăn cơm bằng 2 que tre gọi là đủa, hay xúc cơm bằng lá mít là muổng, vì người đi cày cấy làm nông tay dơ dáy không tiện ăn tay.

Trở lại, do vấn đề ăn tay của dân Ả Rập cùng nguồn gốc với Do Thái nên tôi đã nghĩ rằng Chúa Giêsu đã cùng Juda chấm chung trong một dĩ thức ăn lớn là chính xác theo Thánh Kinh.

Bây giờ bói về Bức tranh Bữa Tiệc Ly của Leonardo : Theo tôi đây là bức tranh có tính minh họa rất tâm lý cho từng cá nhân trong bữa ăn. Chứ chính thật không ai ăn tiệc trên bàn đồng ngồi 1 bên tất cả, còn một bên để trống. Nhưng nếu ngồi tròn thì không thể thấy từng cử chỉ, thái độ, tâm tư của tất cả 13 nhân vật trong buổi tiệc, do vậy mà Leonardo chỉ có thể vẻ như vậy thôi.   

***
Leonardo vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly ?
Thứ năm - 19/03/2015 23:50

Description: Tại sao Leonardo vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly ?
Tại sao Leonardo vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly ?
Vì người chủ của ông đã yêu cầu ông vẽ bức tranh này. Leonardo làm việc cho Ludovico Sforza, Duke của Milan, ngót 18 năm (1482-99). Duke đã quyết định ông ta muốn hình ảnh tôn giáo đặc biệt này phải được vẽ, thế là Leonardo, không dại gì, đã quyết định vẽ bức tranh này để ổn định tài chính. 
(The Last Supper)  
Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image001_0.jpg


 
Tại sao Leonardo vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly ?
Vì người chủ của ông đã yêu cầu ông vẽ bức tranh này. Leonardo làm việc cho Ludovico Sforza, Duke của Milan, ngót 18 năm (1482-99). Duke đã quyết định ông ta muốn hình ảnh tôn giáo đặc biệt này phải được vẽ, thế là Leonardo, không dại gì, đã quyết định vẽ bức tranh này để ổn định tài chính. 
Kích cỡ của bức tranh như thế nào?
 Bức tranh khổ rất lớn - 460 x 880 cm (15 x 29 feet). Nó phủ toàn bộ một bức tường lớn. Nó không giống như kích cỡ của những phiên bản treo sau ghế sofa của chúng ta.

Bức tranh này ở đâu?
Bức tranh sơn tường đầu tiên này được vẽ trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý. 
Nếu bạn nhìn kỹ một phiên bản, chúng sẽ rất dễ nhận ra. Vì là một tấm hình, Bữa Tiệc Ly được đặt trong những khung kính, trên những bàn di chuột (mouse pad), trên những gối nhạc (musical pillow).

Leonardo vẽ bức tranh này bao lâu? 
Ông đã vẽ nó vào năm 1495, và Bữa Tiệc Ly được hoàn thành vào năm 1498. Điều này đáng lưu ý, vì Leonardo là một người hay chần chừ với một xu hướng nổi tiếng là bỏ dở những đề án không hoàn thành.

Tại sao bức tranh này lại được đặc biệt chú ý? 
Thứ nhất, vì các tông đồ ai nấy đều hiển thị rất sinh động, những cảm xúc thể hiện rất rõ. “The Last Supper” chắc chắn đã được thể hiện trước đó. Dù vậy, phóng tác của Leonardo là tác phẩm đầu tiên mô tả cử chỉ của những nhân vật này giống y như người thực. 
Thứ hai, và là tối quan trọng - kỹ thuật phối cảnh trong Bữa Tiệc Ly thật lạ thường! Ta có thể thấy rằng mỗi yếu tố riêng lẻ của bức tranh này hướng sự chú ý của con người ngay đến trung điểm của bố cục tác phẩm này - phần đầu của Chúa Giêsu. Người ta có thể cho rằng đó là điển hình quan trọng nhất của giá trị nghệ thuật tạo hình chưa từng được sáng tạo.

Bức tranh Bữa Tiệc Ly mô tả điều gì? 
Bức tranh Bữa Tiệc Ly là sự giải thích trực giác giác quan của Leonardo về một sự kiện được tường thuật trong tất cả bốn Tin Mừng (Tân Ước Kitô giáo). Buồi chiều hôm ấy, trước khi Chúa Giêsu bị một trong những tông đồ phản bội, Người đã tập trung họ lại để dùng bữa tối và nói với họ rằng Người đã biết những gì sắp xảy đến và rửa chân cho họ (một cử chỉ biểu tượng hoá rằng tất cả đều bình đẳng dưới ánh mắt của Chúa). Khi họ quây quần ăn uống, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ những lời giáo huấn minh bạch về cách ăn và uống trong tương lai, trong ký ức của Người. Đó là nghi lễ Thánh Thể, một nghi thức vẫn được thực hiện. 
Một cách đặc biệt, Bữa Tiệc Ly mô tả những giây phút kế tiếp trong câu chuyện này, sau đó Chúa Giêsu thấp giọng sững sờ rằng một tông đồ sẽ phản bội Người trước khi mặt trời mọc, và các tông đồ có những phản ứng ở mức độ khác nhau, sợ hãi, tức giận và choáng váng.

Trong bức tranh này họ là ai? 
Nhìn bức tranh từ trái sang phải:


Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image002_78.jpg

* Bartholomeo, Giacôbê Hậu và Anrê tạo thành một nhóm ba. Tất cả thất kinh, hoảng sợ, Anrê giơ hai bàn tay của mình bằng một cử chỉ “dừng lại!” 
Description: http://gpbuichu.org/bc_uploads/news/2016_03/00-00-tiec-ly.jpg
Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image002_78.jpg
Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image002_78.jpg

Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image002_78.jpg
Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image002_78.jpg
* Giuđa, Phêrô và Gioan tạo một nhóm ba kế tiếp. Giuđa, chúng ta chú ý, mặt hắn bị chắn bóng, nghi ngờ, ảm đạm và nắm trong tay một bao nhỏ (túi bạc?). Phêrô nhìn ra vẻ giận dữ và một phụ nữ đang nhìn Gioan dường như bị ngất. 
* Chúa Giêsu điềm tĩnh giữa phong ba. 
* Tôma, Giacôbê Tiền và Philipphê bên cạnh. Tôma rõ ràng bị kích động, Giacôbê Tiền sửng sốt kinh ngạc và Philipphê có vẻ như đang tìm hiểu rõ vấn đề.  
* Matthêu, Tađêo và Simon gồm những hình ảnh thuộc nhóm ba cuối cùng. Nó có vẻ như muốn nói rằng, khi một tình huống trở chiều nguy hiểm, Simon là người sẵn sàng “giáp mặt” vì những lời giải thích đó.

Tại sao bức tranh lại bị tróc? 
Leonardo vốn là nhà phát minh, ông cố tìm những chất liệu mới cho Bữa Tiệc Ly. Thay vì dùng sơn dầu vẽ trên vữa ẩm, ông nghĩ và ông đã đưa ra cách dùng vữa khô để thử. Thử nghiệm của ông đã dẫn đến màu sắc khác biệt hơn của một hoạ sĩ, đó là ý định của Leonardo. Những gì ông không đem vào mô tả (bởi vì, ai biết?) là vì phương pháp này không bền bỉ chút nào. Không bao lâu, vữa sơn bắt đầu tróc khỏi bức tường. Và từ đó người ta đã phải cố gắng phục hồi bức tranh này. 
Description: http://baoconggiao.com/uploads/news/2013_02/image003_58.jpg

Tại sao trong bức tranh không có chân Chúa Giêsu?    
Căn cứ chắc chắn, Leonardo có ý định vẽ chân Chúa Giêsu, thực tế, ông đã vẽ. Vào khoảng năm 1650, một người vô danh nào đó, buồn thay đã truyền cảm hứng sai lầm vẽ thêm cửa ra vào cho phòng ăn tập thể này - chắc chắn rằng vị trí hợp lý duy nhất để nói cái cửa có vẻ như là vết loang ở giữa bức tường. Chúng ta đừng nên cằn nhằn và hãy tự cho rằng may mà ông ta không làm thêm vài cái cửa sổ.

Chúng ta đã nghe câu chuyện về Bữa Tiệc Ly này, bức tranh mô tả có đúng không?
Không, mặc dù nó có phần nào hư cấu nhưng với mục đích để kiện toàn giá trị đạo đức.  ( Tôi viết phần nầy dựa trên tài liệu gốc của Jos. Tú Nạc, NMS)