From: tran lien <plavenice@yahoo.com>
To: Luu Vu <luuvu44@yahoo.com>
Sent: Sunday, March 6, 2016 5:32 PM
Subject: Người Công giáo VN cám ơn nhiều hơn vì có chữ quốc ngữ liên tục từ thế kỷ 17
To: Luu Vu <luuvu44@yahoo.com>
Sent: Sunday, March 6, 2016 5:32 PM
Subject: Người Công giáo VN cám ơn nhiều hơn vì có chữ quốc ngữ liên tục từ thế kỷ 17
Xin chuyen de nhan xet kinh nghiem :
TẠI SAO CSVN KHÔNG KIỂM SOÁT
ĐƯỢC GIÁO HỘI CGVN ?
Đạo CG người ta có tổ chức
chặt chẽ và đào tạo trình độ học vấn cao.
Một Linh Mục phải học Tiểu Chủng Viện, Đại CV.. Khi lên bậc Đại học, phải học Bốn năm Thần Học và bốn năm Triết học. Ngoài ra còn tư cách đạo đức và nhiều thử thách trước khi được chịu chức.
Một Linh Mục phải học Tiểu Chủng Viện, Đại CV.. Khi lên bậc Đại học, phải học Bốn năm Thần Học và bốn năm Triết học. Ngoài ra còn tư cách đạo đức và nhiều thử thách trước khi được chịu chức.
Hàng Giám Mục tiêu chuần
khó khăn hơn - Đại đa số có ít nhất một bằng Tiến Sĩ Gia'o
Lua^t hoặc Thần Học. Quan trong vẫn là đạo đức và uyên thâm chức nghiệp.
From: "'dinhthong3Gmail'
Cảm Ơn LM Alexandre De Rhodes khi
viết chữ Quốc Ngữ
Điểm nổi bật là các trường học ,các bệnh viện
,các cơ sở từ thiện do Giáo Hội Công Giáo lập ra và trông coi
chỉ có giúp DÂN.
Từ
ngày Nhà Nước đòi Quản Lý hiện tượng Trộm Cắp xẩy ra thường xuyên. Khi kho
thuốc của Bệnh Viện Hồng Bàng do 1 soeur ( nữ tu) coi không mất 1
viên thuốc, sau đổi tên thành BV Phạm Ngọc Thạch kho thuốc do 1 Cán Bộ quản lý
khi kiểm tra thuốc Rifadine (thuốc chữa lao đắt tiền mất gần hêt).
Nhìn
tinh thần và cách phục vụ của Cán Bộ Y Tế Nhà Nước với các Tu Sĩ tại các
Trại Phong ( Cùi ) tại Qui Hòa (Qui Nhơn), Núi Sạn ( NhaTrang ) Di Linh (
ĐaLạt) ta thấy sự khác biệt, một bên vì bổn phận ( bắt buộc ) một bên
vì Tình Yêu Thiên Chúa.
Gương Giám Mục Cassaigne,
Mẹ Mơi, Linh Mục Bác Sĩ Cổ Tân Hưng: cả cuộc đời phục vụ
người phong cùi đáng kính phục.
Cảm
Ơn LM Alexandre De Rhodes khi viết chữ Quốc Ngữ
Mới đây một nhóm người Việt đi tìm mộ Cha Alexandre De Rhodes . Ngài chết ở Iraq. Có thể do bị truy lùng bắt đạo gắt gao VN , nên LM Al. De Rhodes phải qua truyền giáo ở Iraq . Từ lâu nước Iraq đã cố gắng nghiên cứu nhưng cũng chưa có mẫu tự La Tinh A, B, C, như tiếng Việt chúng ta.
Mới đây một nhóm người Việt đi tìm mộ Cha Alexandre De Rhodes . Ngài chết ở Iraq. Có thể do bị truy lùng bắt đạo gắt gao VN , nên LM Al. De Rhodes phải qua truyền giáo ở Iraq . Từ lâu nước Iraq đã cố gắng nghiên cứu nhưng cũng chưa có mẫu tự La Tinh A, B, C, như tiếng Việt chúng ta.
Các nhà truyền giáo Đao Chúa
Âu Châu phát minh ra tiếng Việt lúc đầu chỉ để nhắm truyền giáo trong xóm
làng nghèo VN , hoặc giảng dạy trong các nhà thờ CG mà thôi .
Hơn hai
thế kỷ sau, các nhà ngôn ngữ VN mới thấy mẫu tự La tinh quá hay hơn chữ Hán,
chữ Nôm, nên tìm cách loại bỏ tiếng Hán của người Tàu và chữ nôm của vn thay
cách viết tiếng Nôm bằng chữ quốc ngữ như ta thấy ngày nay.
Tờ báo đầu tiên dùng chữ
quốc ngữ La Tinh a, b, c là tờ Gia Định Báo phát hành năm
1860.
Người
Công giáo VN cám ơn nhiều hơn vì có chữ quốc ngữ liên tục từ thế
kỷ 17. Hơn nữa các nhà truyền giáo Âu Châu đã chịu hy sinh rất nhiều vì
phải bỏ đời sống an lành sung sướng ở quê nhà , phiêu lưu nguy hiểm vào các xóm
nghèo VN .
Rất nhiều
nhà truyên giao Âu Châu như Hoà Lan, Ý, Tây Ban Nha, Pháp , Bô Đào Nha
... đã bị các vua chúa VN giết chết.
*
Ba cống hiến quan trọng của Công giáo
Tôi là người ngoài Công giáo, nhưng rất tôn
trọng các tín ngưỡng hay vô
tín ngưỡng. Những xung đột giữa cộng đồng
Công giáo với nhà cầm quyền trong thời gian qua là điều không đáng có. Hơn thế,
sau những xung đột đó, một số cán bộ có chức sắc đã có những đánh giá thiếu
khách quan về vai trò của giáo dân với đất nước. Điều này không có ích cho khối
đại đoàn kết dân tộc.
Để tạo
được sự đồng thuận, không có cách nào khác là phải có cái nhìn khách quan về
vai trò của các tôn giáo. Xin được điểm qua một vài cống hiến của bà con giáo
dân với sự nghiệp chấn hưng nước nhà mà tôi có dịp chứng kiến suy ngẫm.
1- Chữ
quốc ngữ và nền văn minh của nhân loại
CHỮ QUỐC NGỮ
LÀ NIỀM HÃNH DIỆN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
Trước
khi các nhà truyền giáo vào Việt Nam, hàng ngàn năm qua, người Việt vẫn dùng
chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm trong các giao dịch. Nhưng đa số người Việt Nam mù
chữ và không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì hệ thống chữ viết này quá phức
tạp.
Từ thế kỷ XVI, cùng với các phát kiến hàng hải, các nhà truyền giáo theo các tàu buôn đến Việt Nam, họ là người tiên phong trong việc dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Đầu năm 1625, Linh Mục Alexandre de Rhodes đến Việt Nam , đã có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi.
Trên cơ sở đó, Alexandre de Rhodes (1591- 1660)
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cách diễn đạt này, để rồi năm 1651, lần đầu
tiên ông cho xuất bản cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA tại Roma. Đây được coi là năm
sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Cuộc khai sinh diễn ra tại nhà in Vatican.
Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình. Như vậy,
chữ quốc ngữ từ chỗ là công cụ truyền giáo trong các nhà thờ, đã từng bước trở
thành ngôn ngữ cho toàn dân Việt Nam .
Ngày nay, không ai có phủ nhận sự thuận tiện và văn minh của chữ Quốc ngữ, chính nó đã góp phần lớn đưa đất nước VN hội nhập với thế giới dễ dàng, đơn giản hơn nhiều ngôn ngữ khác. Những ngôn ngữ chính dùng trên thế giới như Tiếng Anh, Tiếng Pháp… sẽ trở nên ít phức tạp hơn cho người học biết chữ quốc ngữ, so với người dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Nhưng nguồn gốc và công lao của người sinh ra ít được người ta nhắc đến, đó là sự thiếu công bằng.
Ngày nay, không ai có phủ nhận sự thuận tiện và văn minh của chữ Quốc ngữ, chính nó đã góp phần lớn đưa đất nước VN hội nhập với thế giới dễ dàng, đơn giản hơn nhiều ngôn ngữ khác. Những ngôn ngữ chính dùng trên thế giới như Tiếng Anh, Tiếng Pháp… sẽ trở nên ít phức tạp hơn cho người học biết chữ quốc ngữ, so với người dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Nhưng nguồn gốc và công lao của người sinh ra ít được người ta nhắc đến, đó là sự thiếu công bằng.
Cùng với sự xuất hiện chữ quốc ngữ, những nét
văn minh phương Tây cũng dần dần được du nhập vào VN đi kèm với Công giáo.
Những hủ tục mê tín, dị đoan như cúng tế, bói toán… khi có bệnh được thay
vào đó là bệnh viện, nhà thương bố thí, trường học cho người nghèo… Trước đây,
nơi nào có Nhà thờ, thì ở đó có thêm trường học, nhà thương cho những người không
có khả năng chữa bệnh hoặc học hành.
Ngoài ra, nếp sống, quan niệm về cuộc sống cũng dần dần được đưa vào một cách khoa học, thiết thực hơn bởi các sản phẩm văn minh phương Tây mà những người truyền giáo mang đến cho đất nước An Nam theo bước chân truyền đạo của họ.
Nền văn hóa làng xã, cục bộ địa phương “sau lũy tre làng” cũng dần dần được thay đổi với cách nhìn toàn diện và tổng thể hơn. Với người Công giáo, bất cứ chỗ nào có giáo dân cũng là anh em, với mọi người đều là con Thiên Chúa dù khác đạo. Điều này dễ chứng minh nếu nhìn thấy bà con công giáo khắp nơi đã đổ về Thái Hà, về Xã Đoài… khi có những biến cố mà về mặt xã hội thì không liên quan đến những người ở xa xôi.
Những hoạt động của các Dòng tu trong Công giáo
như Dòng Chúa Cứu Thế với linh hướng phục vụ người nghèo, Dòng Phanxicô theo
linh hướng “Sống với tinh thần nghèo khó”… đã có những tác dụng thiết thực xoa
dịu nỗi đau của những người nghèo khổ trong xã hội. Nhìn những cộng đồng tu
hành phục vụ tại các trung tâm điều dưỡng, điều trị cho bệnh nhân AIDS, phục vụ
những người đang vướng vào tệ nạn xã hội, nuôi dưỡng trẻ mồ côi… đã thể hiện rõ
điều này và được xã hội công nhận.
2- Duy trì nền kinh tế nhiều thành phần.
2- Duy trì nền kinh tế nhiều thành phần.
Thời bao cấp, do quan niệm thời kỳ quá độ tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế chỉ có hai thành phần chính là
Kinh tế tập thể và Kinh tế quốc doanh. Mọi thành phần khác đều không được
khuyến khích và chính thức thừa nhận.
Ruộng đất, các tư liệu sản xuất quan trọng khác
và cả các loại hình dịch vụ đều phải tập trung vào hợp tác xã. Nhưng phong trào
Hợp tác hóa nông nghiệp đã dần dần thể hiện rõ những bất cập của nó và sớm chết
yểu bởi nó đi ngược với quy luật kinh tế và cách nghĩ truyền thống của nông dân
Việt Nam. Chính vì thế có thể nói đó là một mô hình công xã ảo tưởng,
nó đã tiêu diệt nền kinh tế nông nghiệp VN từ chỗ thừa gạo xuất khẩu đến một
giai đoạn từ Trung ương đến địa phương, từ quan chức đến mỗi người dân đều chỉ
lo… cái đói.
Giám mục Đinh Đức Trụ
Tuy nhiên, nhiều nơi, đặc biệt là các vùng Công
giáo vẫn có những gia đình, thậm chí là có những cơ sở không gia nhập Hợp tác
xã nông nghiệp dù bị nhiều áp lực xã hội. Chẳng hạn theo tôi được biết, ở Thái
Bình, Giám mục Đinh Đức Trụ là người đã công khai khuyến khích giáo dân không
nên vào Hợp tác xã vì nó chỉ là ảo tưởng. Vì vậy bà con giáo dân vẫn kiên trì
mô hình kinh tế hộ, và sau này vào thời kỳ đổi mới, đường lối đó được thực tế
chứng minh là đúng đắn. Cả đất nước sau mấy chục năm Hợp tác hóa đã chấp nhận
trở lại kinh tế cá thể.
Những hộ kinh tế cá thể không tham gia Hợp tác xã nông nghiệp, tự họ có thể nuôi sống mình mà không cần trợ giúp của nhà nước. Hơn thế, họ còn có nông sản dư thừa cung cấp cho thị trường đã là minh chứng sống cho việc khẳng định đường lối Hợp tác xã nông nghiệp là sai lầm. Điều này giúp cho các nhà hoạch định chính sách mạnh dạn khẳng định chủ trương chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần.
Những hộ kinh tế cá thể không tham gia Hợp tác xã nông nghiệp, tự họ có thể nuôi sống mình mà không cần trợ giúp của nhà nước. Hơn thế, họ còn có nông sản dư thừa cung cấp cho thị trường đã là minh chứng sống cho việc khẳng định đường lối Hợp tác xã nông nghiệp là sai lầm. Điều này giúp cho các nhà hoạch định chính sách mạnh dạn khẳng định chủ trương chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần.
Thời kinh tế tập trung, mọi thứ hàng hóa đều do
nhà nước quản lý và đều chịu sự phân phối từ trung ương xuống địa phương. Trong
khi nhu cầu là sự đa dạng mà nhà nước thì không thể quán xuyến hết nên trong
một thời gian thực thi chính sách này, nền kinh tế dần dần đi vào ngõ cụt, đời
sống đói kém, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Thế nên dân gian mới có câu:
“Cái cứt gì cũng phân mà phân thì… như cứt”.
Khi sự đói kém bao phủ toàn xã hội thì ở những làng công giáo, đời sống đỡ tệ hơn nhiều. Làng Vĩnh Hòa thuộc xã Hợp Thành, quê tôi là một làng như vậy. Vào thời điểm đó, trong cộng đồng bà con công giáo, nền kinh tế gia đình vẫn âm thầm phát triển, đặc biệt là các nghề truyền thống. Do bị phân biệt đối xử nên cộng đồng bà con công giáo vẫn ngầm “móc ngoặc” nhau sản xuất hàng hóa và tiêu thụ trong cộng đồng rồi tuồn ra bên ngoài. Sau này tìm hiểu được biết thêm, không chỉ ở làng Vĩnh Hòa quê tôi mà cả các khu vực khác đông đồng bào Công giáo như Phát Diệm, Bùi chu… các ngành nghề phụ vẫn âm ỉ hoạt động và cung ứng hàng hóa cho xã hội.
Khi sự đói kém bao phủ toàn xã hội thì ở những làng công giáo, đời sống đỡ tệ hơn nhiều. Làng Vĩnh Hòa thuộc xã Hợp Thành, quê tôi là một làng như vậy. Vào thời điểm đó, trong cộng đồng bà con công giáo, nền kinh tế gia đình vẫn âm thầm phát triển, đặc biệt là các nghề truyền thống. Do bị phân biệt đối xử nên cộng đồng bà con công giáo vẫn ngầm “móc ngoặc” nhau sản xuất hàng hóa và tiêu thụ trong cộng đồng rồi tuồn ra bên ngoài. Sau này tìm hiểu được biết thêm, không chỉ ở làng Vĩnh Hòa quê tôi mà cả các khu vực khác đông đồng bào Công giáo như Phát Diệm, Bùi chu… các ngành nghề phụ vẫn âm ỉ hoạt động và cung ứng hàng hóa cho xã hội.
Nhờ sự linh hoạt đó, nên khu vực kinh tế tư nhân
mà nhà cầm quyền quyết tâm tiêu diệt đã không chết. Đặc biệt là trong cộng đồng
Công giáo. Để rồi, khi dỡ bỏ chính sách cấm đoán đó, thành phần kinh tế này
được dịp trỗi dậy, làm sinh động của nền kinh tế.
Hiện tượng này vẫn được đảng ta gọi là: “Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo”
3- Tiên phong hội nhập
Hiện tượng này vẫn được đảng ta gọi là: “Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo”
3- Tiên phong hội nhập
So với các tôn giáo khác, Công giáo là cộng đồng dân cư đa sắc tộc, đa quốc nhất. Trải dài từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, có thể nói rằng không có nước nào mà không có CG, dầu là nơi xa xuôi hèo lánh núi rừng hiểm trở khắp 5 Châu đều có đạo Công giáo lan truyền đến, nhưng tập trung một tỷ lệ lớn nhất ở các nước phương Tây. Chính vì sợi dây liên lạc này, nên ngay cả khi cấm đoán đang ở vào thời điểm cao trào thì cộng đồng Công giáo vẫn duy trì liên lạc với các tín hữu của mình ở ngoài biên giới quốc gia.
Những công trình Công giáo nguy nga, rộng lớn
dành cho việc thờ tự đã là một nét văn hóa không thể tách rời từ lâu của nền
văn hóa Việt Nam. Việc xây dựng các công trình đó đã đem đến cho Việt Nam những
quan niệm ban đầu về một lĩnh vực mới về kiến trúc và xây dựng hiện đại… thoát
ra khỏi những quan niệm xây dựng tranh tre lá nứa hoặc vôi cát từ lâu
đã in sâu đậm trong quan niệm người Việt.
Cùng với đó, những nhà truyền giáo ngoại quốc vào Việt Nam khiến nhu cầu học tập ngôn ngữ nước ngoài cũng đã dần dần xuất hiện và cổ vũ cho sự tìm hiểu thể giới bên ngoài bắt đầu từ những cá nhân trong chính Công giáo như Nguyễn Trường Tộ…
Nguyễn Trường Tộ – một người Công giáo hết lòng
vì đất nước – sinh năm 1830 tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyện, tỉnh Nghệ An.
( không phải huyện Nghi Lộc đã ghi sai )
Việc sinh hoạt cộng đồng đã từng bước thay đổi
cách sinh hoạt truyền thống của người Việt. Cùng kiến trúc là âm nhạc, hội họa
là những môn nghệ thuật mới tạo ra sự khác biệt trong sinh hoạt văn hóa truyền
thống của người Việt xưa. Thông qua những sinh hoạt như vậy, người Việt Nam
vượt qua được chính những định kiến, những tư tưởng cục bộ địa phương… đó được
coi là những mầm mống đầu tiên cho sự hội nhập của đất nước sau này.
Cũng cần nói thêm, cuộc di cư vĩ đại từ Bắc vào
Nam năm 1954 hầu hết là bà con Công giáo. Sau năm 75, là cuộc di tản vĩ đại
sang các nước không cộng sản, trong đó chiếm tỷ trọng lớn là bà con Công giáo.
Một tỷ lệ lớn người Việt ở Mỹ là bà con Công giáo. Họ là người có điều kiện
tiếp cận với thể chế văn minh, dân chủ phát triển ở trình độ cao.
Khi nhà nước Việt Nam mở cửa, họ là những người đầu tiên về nước hoặc là gửi ngoại tệ về giúp thân nhân ở trong nước. Cùng với đó là hàng hóa, dịch vụ... Điều này giúp cho Việt Nam giảm căng thẳng về sự khan hiếm kéo dài trong những năm bao cấp. Hơn thế là cách thức tổ chức làm ăn, cách thức tổ chức đời sống và ý thức chấp hành pháp luật của một xã hội pháp quyền.
Khi nhà nước Việt Nam mở cửa, họ là những người đầu tiên về nước hoặc là gửi ngoại tệ về giúp thân nhân ở trong nước. Cùng với đó là hàng hóa, dịch vụ... Điều này giúp cho Việt Nam giảm căng thẳng về sự khan hiếm kéo dài trong những năm bao cấp. Hơn thế là cách thức tổ chức làm ăn, cách thức tổ chức đời sống và ý thức chấp hành pháp luật của một xã hội pháp quyền.
Có thể nói, cộng đồng công giáo là những người
tiên phong hội nhập.
Trên đây là những cảm nhận được của riêng tôi, có thể các bạn có những phát hiện khác, xin mời có ý kiến tham gia!
Trên đây là những cảm nhận được của riêng tôi, có thể các bạn có những phát hiện khác, xin mời có ý kiến tham gia!
Phan Thế Hải
__._,_.___
|
•
|
•
|
•
|
•
|
.
__,_._,___


Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire